Bàn luận về quyền quản lý công ty của thành viên góp vốn trong công ty hợp danh

Posted on Tư vấn luật doanh nghiệp 428 lượt xem

Tóm tắt tình huống:

Bình luận tính hợp lý của các quy định trong Luật Doanh nghiệp 2014 về quyền quản lý công ty của thành viên góp vốn trong công ty hợp danh theo điểm b khoản 2 Điều 182 quy định thành viên góp vốn có nghĩa vụ : “Không được tham gia quản lý công ty, không được tiến hành hoạt động kinh doanh nhân danh công ty”. Tuy nhiên khoản 1 và khoản 3 Điều 177 quy định : “1. Tất cả thành viên hợp lại thành hội đồng thành viên…. “, “3. Hội đồng thành viên có quyền quyết định tất cả công việc kinh doanh của công ty”.
Người gửi: Thuý Quỳnh
hop danh

Luật sư tư vấn

Xin chào bạn! Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình tới Luật Việt Phong. Về câu hỏi của bạn, công ty Luật Việt Phong xin tư vấn và hướng dẫn bạn như sau:

1/ Căn cứ pháp lý

– Luật Doanh nghiệp 2014.

2. Bàn luận về quyền quản lý công ty của thành viên góp vốn trong công ty hợp danh

Theo quy định tại khoản 1 Điều 18 Luật doanh nghiệp thì thành viên này có thể là cá nhân, pháp nhân trừ những trường hợp thuộc Khoản 2 Điều 18 thì không được góp vốn vào doanh nghiệp nói chung và công ty hợp danh nói riêng.
Hơn nữa tại Khoản 2 Điều 182 có quy định về nghĩa vụ của thành viên góp vốn như sau:
“2. Thành viên góp vốn có các nghĩa vụ sau đây:
a) Chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp;
b) Không được tham gia quản lý công ty, không được tiến hành công việc kinh doanh nhân danh công ty;
c) Tuân thủ Điều lệ, nội quy công ty và quyết định của Hội đồng thành viên;
d) Các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và Điều lệ công ty.”
Thứ nhất, là do tính chất và vai trò của loại thành viên này trong công ty hợp danh, theo quy định của pháp luật hiện hành thì thành viên góp vốn không có yêu cầu gì ngoài yêu cầu về vốn; thành viên góp vốn chỉ phải chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn góp vào công ty. Có thể nói rằng một khi các thành viên này góp đủ phần vốn góp là họ hết trách nhiệm,các chủ nợ không có quyền đòi nợ một cách trực tiếp đối với các thành viên này.
Thứ hai, do tính chất chịu trách nhiệm hữu hạn nên các thành viên góp vốn vào công ty hợp danh không có quyền tham gia, điều hành, quản lý công ty hoặc nhân danh công ty. Điều này nhằm tránh cho bên thứ ba khi giao dịch với công ty có thể bị ngộ nhận về tư cách thành viên góp vốn lầm tưởng rằng thành viên này cũng là một thành viên hợp danh có trách nhiệm vô hạn đối với nghĩa vụ của công ty.
Mặt khác, thành viên hợp danh có quyền quản lý công ty vì phải chịu trách nhiệm về các hoạt động của công ty hợp danh bằng cả tài sản của mình trong khi thực tế nếu để thành viên góp vốn can thiệp vào công việc quản lý, điều hành công ty thì rất có thể thành viên hợp danh phải chịu ảnh hưởng của thành viên góp vốn.
Như vậy, hoạt động của công ty có thể có thể sẽ bị các thành viên này thao túng, các thành viên hợp danh không có quyền gì mà ngược lại họ phải chịu trách nhiệm trên cả tài sản của mình.
Ngoài ra, các thành viên góp vốn còn được chia lợi nhuận và được chia giá trị tài sản còn lại của công ty khi công ty giải thể theo tỷ lệ quy định tại điều lệ công ty. Khác với thành viên hợp danh trong công ty, thành viên góp vốn có quyền tự do hơn trong việc chuyển nhượng phần vốn góp của mình cho người khác và cũng kể từ thời điểm chuyển nhượng phần vốn góp này tư cách thành viên góp vốn trong công ty cũng chấm dứt. Thông thường sự ra đi của thành viên hợp danh là lý do giải thể của công ty nhưng nếu thành viên góp vốn ra khỏi công ty thì công ty vẫn hoạt động bình thường.
Tuy nhiên quy định này của pháp luật cũng có một bất cập đó là trong trường hợp cần phải ký kết một loại hợp đồng có ý nghĩa sống còn đối với công ty nhưng chỉ có thành viên hợp danh mới có thể nhân danh công ty ký kết hợp đồng mà thành viên góp vốn này theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 thì không có quyền kí kết hợp đồng nên đã bỏ lỡ một cơ hội làm ăn lớn và công ty bị phá sản. Vì vậy, thiết nghĩ Luật doanh nghiệp cần quy định thêm “thành viên góp vốn có thể nhân danh công ty trong một số trường hợp đặc biệt nếu được các thành viên hợp danh đồng ý”.
Trên đây là tư vấn của công ty Luật Việt Phong về Bàn luận về quyền quản lý công ty của thành viên góp vốn trong công ty hợp danh. Chúng tôi hi vọng rằng quý khách có thể vận dụng các kiến thức kể trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống. Nếu có vấn đề pháp lý nào khác cần tư vấn quý khách vui lòng gọi điện tới tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 của công ty Luật Việt Phong để gặp luật sư tư vấn và chuyên viên pháp lý.
Chuyên viên: Nguyễn Hương Diền

Bài viết được thực hiện bởi: Luật sư. Nguyễn Văn Đại (Công ty Luật TNHH Việt Phong)

Để được giải đáp thắc mắc về: Bàn luận về quyền quản lý công ty của thành viên góp vốn trong công ty hợp danh
Vui lòng gọi Tổng đài luật sư tư vấn pháp luật 24/7: 1900 6589

Để gửi Email tư vấn pháp luật, Báo giá dịch vụ pháp lý hoặc đặt Luật sư tư vấn pháp luật trực tiếp.
Vui lòng click tại đây

CÔNG TY LUẬT TNHH VIỆT PHONG

 Hà Nội – Biệt thự 2.11 đường Nguyễn Xuân Khoát, KĐT Ngoại Giao Đoàn, Q. Bắc Từ Liêm
– Số 82 Nguyễn Tuân, Phường Thanh Xuân Trung, Quận Thanh Xuân

 Bắc Giang – 65-67 khu Minh Khai, Thị trấn Chũ, huyện Lục Ngạn

Vui lòng đánh giá bài viết

Nếu có vướng mắc bạn vui lòng liên hệ với Luật sư 1900 633 283

hoặc Bạn có thể click vào các ô dưới đây để gửi Email cho chúng tôi, Luật Việt Phong luôn sẵn sàng để hỗ trợ bạn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chủ đề