Các trường hợp bị tạm giam và Hiệu lực của Lệnh truy nã

Tóm tắt câu hỏi

Các trường hợp bị tạm giam và Hiệu lực của Lệnh truy nã

Thưa Luật sư, vào năm 1996 mẹ em có giữ hộ 3 người bạn số tiền là 30 triệu đồng. Sau đó mẹ em cho bác em mượn để xây nhà nhưng bác không có khả năng chi trả. Khi 3 người bạn đó biết được đã ráo riết đòi nên mẹ em đã phải chi trả theo kiểu mẹ vay tiền nóng và đong tiền lời hàng tháng cho họ.

Tuy nhiên lãi mẹ đẻ lãi con, sau gần 1 năm vì không thể tiếp tục chi trả nên mẹ em đã trốn khỏi địa phương. 3 người phụ nữ trên đã khởi tố và toà án đã phát lệnh truy nã với mẹ em cho đến nay. Số tiền gốc và lãi tại thời điểm mẹ em trốn là khoảng 300 triệu. Sau đó khoảng 10 năm ông nội em có gọi 3 người phụ nữ đó về nhà và trả cho mỗi người 8 triệu xem như trả bớt phần nào tiền gốc. Và có 2 người đã kí vào đơn bãi nại đã nộp cho toà án. Thời gian tính từ lúc mẹ em bị truy nã đến nay đã gần 20 năm. Vậy nếu bây giờ em muốn đưa mẹ về để tự thú thì có bị tạm giam hay không? Và nếu dựa vào 1 số tình tiết giảm nhẹ như đã bồi thường 1 phần cho người bị hại, khi bỏ trốn do chủ nợ doạ nạt đòi chém đòi giết, chồng con li tán, thì mẹ em có phải ở tù không? Và có cách nào để mẹ em bị khung hình phạt nhẹ nhất hay không? Lệnh truy nã sau 20 năm có được xoá hay không ạ? Em cám ơn!

Người gửi: Lê Xuân Phong (Hưng Yên)

Các trường hợp bị tạm giam và Hiệu lực của Lệnh truy nã tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

( Ảnh minh họa:Internet)
Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại gọi 1900 6589

 

Luật sư tư vấn

Xin chào bạn! Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình tới Luật Việt Phong. Về câu hỏi của bạn, công ty Luật Việt Phong xin tư vấn và hướng dẫn bạn như sau:

1/ Nếu đưa ra đầu thú thì có bị tạm giam?

Căn cứ theo khoản 3 Điều 139 Bộ Luật Hình sự 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:

“3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.”

Căn cứ theo khoản 3 Điều 8 quy định về Tội phạm như sau:

3. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.

Theo quy định pháp luât, tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt là 15 năm tù. Trong trường hợp của mẹ bạn, số tiền mẹ bạn còn dư nợ là 300 triệu đồng, tuy nhiên chưa gây hậu quả gì rất nghiêm trọng nên trường hợp mẹ bạn sẽ được xếp vào tội phạm nghiêm trọng.

Căn cứ theo khoản 1,2 Điều 88 Bộ Luật tố tụng hình sự 2003 quy định về Tạm giam như sau:

“1. Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau đây:

a) Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng;

b) Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.”

Như vậy, mẹ bạn vẫn có thể bị tạm giam do có hành vi bỏ trốn, gây cản trở việc điều tra. Tuy nhiên theo chúng tôi, bạn vẫn nên đưa mẹ bạn ra đầu thú càng sớm càng tốt để được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

2/ Có phải chịu hình phạt tù không?

Căn cứ theo khoản 3 Điều 139 Bộ Luật Hình sự 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:

“3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.”

Theo thông tin bạn cung cấp, mẹ bạn bị truy cứu về tội lừa đảo chiếm đoạt tại sản với giá trị là 300 triệu đồng nên căn cứ điều khoản trên có thể khẳng định mẹ bạn sẽ phải chịu hình phạt trong khung nêu trên. 

Trong trường hợp mẹ bạn phải chịu hình phạt tù mà muốn được hưởng mức phạt nhẹ thì mẹ bạn cần có những tình tiết giảm nhẹ như ăn năn hối cải, gia đình tự nguyện bồi thường, có đơn xin giảm án của Bị đơn (người bị hại), có nhân thân tốt…. Mức hình phạt cụ thể sẽ do Tòa án quyết định.

3/ Lệnh truy nã sau 20 năm có được xóa không?

Căn cứ theo Mục 13 Phần II Công văn 81/2002/TANDTC quy định các trường hợp quyết định truy nã hết hiệu lực như sau:

“Quyết định (lệnh) truy nã chỉ hết hiệu lực khi người bị truy nã đã chết hoặc bị bắt giữ theo quyết định (lệnh) truy nã hoặc trong trường hợp có quyết định đình nã của cơ quan điều tra”

Theo đó, không có một thời hạn cụ thể quyết định hiệu lực pháp lý của quyết định truy nã.

Mặt khác, Căn cứ theo khoản 2,3 Điều 23 Bộ luật hình sự năm 1999 có quy định về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự như sau:

“2. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:

a) Năm năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng;

b) Mười năm đối với các tội phạm nghiêm trọng;

c) Mười lăm năm đối với các tội phạm rất nghiêm trọng;

d)  Hai mươi năm đối với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

3. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện. Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này người phạm tội lại phạm tội mới mà Bộ luật quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên một năm tù, thì thời gian đã qua không được tính và thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày phạm tội mới.

Nếu trong thời hạn nói trên, người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có lệnh truy nã, thì thời gian trốn tránh không được tính và thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra tự thú hoặc bị bắt giữ.”

Nếu trong thời hạn nói trên, người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có lệnh truy nã, thì thời gian trốn tránh không được tính và thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra tự thú hoặc bị bắt giữ. Như vậy, khoảng thời gian mẹ bạn bỏ trốn sẽ không được tính vào thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và thời hiệu sẽ được tính lại từ đầu khi mẹ bạn ra đầu thú.

Từ đó khẳng định rằng, không có thời hạn của một quyết định truy nã và cũng không có căn cứ về hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với mẹ bạn.

Trên đây là tư vấn của công ty Luật Việt Phong về vấn đề Các trường hợp bị tạm giam và Hiệu lực của Lệnh truy nã. Chúng tôi hi vọng rằng quý khách có thể vận dụng các kiến thức kể trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống. Nếu có vấn đề pháp lý nào khác cần tư vấn quý khách vui lòng gọi điện tới tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 của công ty Luật Việt Phong để gặp luật sư tư vấn và chuyên viên pháp lý.

Bài viết được thực hiện bởi: Luật sư. Nguyễn Văn Đại (Công ty Luật TNHH Việt Phong)

Để được giải đáp thắc mắc về: Các trường hợp bị tạm giam và Hiệu lực của Lệnh truy nã
Vui lòng gọi Tổng đài luật sư tư vấn pháp luật 24/7: 1900 6589

Để gửi Email tư vấn pháp luật, Báo giá dịch vụ pháp lý hoặc đặt Luật sư tư vấn pháp luật trực tiếp.
Vui lòng click tại đây

CÔNG TY LUẬT TNHH VIỆT PHONG

 Hà Nội – Biệt thự 2.11 đường Nguyễn Xuân Khoát, KĐT Ngoại Giao Đoàn, Q. Bắc Từ Liêm
– Số 82 Nguyễn Tuân, Phường Thanh Xuân Trung, Quận Thanh Xuân

 Bắc Giang – 65-67 khu Minh Khai, Thị trấn Chũ, huyện Lục Ngạn

Vui lòng đánh giá bài viết

Nếu có vướng mắc bạn vui lòng liên hệ với Luật sư 1900 633 283

hoặc Bạn có thể click vào các ô dưới đây để gửi Email cho chúng tôi, Luật Việt Phong luôn sẵn sàng để hỗ trợ bạn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chủ đề