Công ty chấm dứt hợp đồng lao động với người đi cai nghiện về có hợp pháp?

Posted on Tư vấn luật lao động 309 lượt xem

Tóm tắt câu hỏi:

Công ty chấm dứt hợp đồng lao động với người đi cai nghiện về có hợp pháp?

Chào các luật sư! Năm 2009 anh trai tôi có ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn với một công ty, làm được hơn 5 năm thì anh tôi bị đưa đi cai nghiện bắt buộc. Một năm sau, anh trai tôi được trở về nhà. Khi anh tôi quay trở về muốn làm việc tại công ty thì công ty không đồng ý và yêu cầu chấm dứt hợp đồng lao động với anh tôi, lý do là anh ấy không đủ điều kiện để làm việc trong khi sức khỏe của anh ấy vẫn rất tốt. Mong luật sư giải đáp giúp tôi. Cảm ơn các Luật sư!

Người gửi: Mai Ngọc Lương (Ninh Bình)

Công ty chấm dứt hợp đồng lao động với người đi cai nghiện về là hợp pháp hay không

( Ảnh minh họa:Internet)
Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại gọi 1900 6589

 

Luật sư tư vấn:

Xin chào chị! Cám ơn chị đã gửi câu hỏi của mình tới Luật Việt Phong. Về câu hỏi của chị, công ty Luật Việt Phong xin tư vấn và hướng dẫn chị như sau:

1/ Căn cứ pháp lý

– Bộ luật Lao động năm 2012;

– Nghị định 88/2015/NĐ – CP sửa đổi một số điều của Nghị định 95/2013/NĐ – CP;

2/ Công ty chấm dứt hợp đồng lao động với người đi cai nghiện về có hợp pháp?

Bộ luật Lao động năm 2012 quy định các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động tại Điều 36 như sau:

Điều 36. Các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động

1. Hết hạn hợp đồng lao động, trừ trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 192 của Bộ luật này.

2. Đã hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động.

3. Hai bên thoả thuận chấm dứt hợp đồng lao động.

4. Người lao động đủ điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội và tuổi hưởng lương hưu theo quy định tại Điều 187 của Bộ luật này.

5. Người lao động bị kết án tù giam, tử hình hoặc bị cấm làm công việc ghi trong hợp đồng lao động theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án.

6. Người lao động chết, bị Toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết.

7. Người sử dụng lao động là cá nhân chết, bị Toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết; người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động.

8. Người lao động bị xử lý kỷ luật sa thải theo quy định tại khoản 3 Điều 125 của Bộ luật này.

9. Người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 37 của Bộ luật này.

10. Người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 38 của Bộ luật này; người sử dụng lao động cho người lao động thôi việc do thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế hoặc do sáp nhật, hợp nhất, chia tách doanh nghiệp, hợp tác xã.”

Quy định pháp luật về tạm hoãn thực hiện hợp đồng được thể hiện tại Điều 32 và 33 Bộ Luật Lao động năm 2012 như sau:

Điều 32. Các trường hợp tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động

1. Người lao động đi làm nghĩa vụ quân sự.

2. Người lao động bị tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

3. Người lao động phải chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc.

4. Lao động nữ mang thai theo quy định tại Điều 156 của Bộ luật này.

5. Các trường hợp khác do hai bên thoả thuận.”

“Điều 33. Nhận lại người lao động hết thời hạn tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày hết thời hạn tạm hoãn hợp đồng lao động đối với các trường hợp quy định tại Điều 32 của Bộ luật này, người lao động phải có mặt tại nơi làm việc và người sử dụng lao động phải nhận người lao động trở lại làm việc, trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận khác.”

Như vậy, việc người lao động chấp hành quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thuộc một trong các trường hợp tạm hoãn thực hiện hợp đồng. Nghĩa là thời gian người lao động ở cơ sở cai nghiện bắt buộc sẽ được coi là thời gian tạm hoãn thực hiện hợp đồng; hết thời gian tạm hoãn này, người lao động sẽ được nhận trở lại làm việc trừ trường hợp người lao động và người sử dụng lao động có thỏa thuận khác. Đây là chính sách của Nhà nước để những người nghiện có thể hòa nhập cộng đồng, được đối xử công bằng như mọi người. Như vậy, việc người lao động thực hiện quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc không phải căn cứ để chấm dứt hợp đồng lao động. 

Vì chị chưa cung cấp đầy đủ thông tin về thời gian anh chị phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và thời điểm anh ấy quay trở lại công ty nên chúng tôi chỉ có thể tư vấn giả định như sau: 

Trường hợp 1: Quá 15 ngày kể từ ngày hết thời hạn phải cai nghiện bắt buộc, anh chị không quay trở lại công ty thì công ty được phép đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Căn cứ theo điểm d khoản 1 Điều 38 Bộ Luật Lao động năm 2012.

Trường hợp 2: Anh của chị có mặt tại công ty trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày hết thời gian cai nghiện bắt buộc mà công ty không nhận trở lại làm việc còn ra quyết định chấm dứt hợp đồng lao động thì đó là trái quy định pháp luật và chính sách của Nhà nước. Hành vi của công ty sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo nghị định 88/2015/NĐ – CP. 

Điều 38. Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động

1. Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường hợp sau đây:

a) Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động;

b) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, đã điều trị 06 tháng liên tục, đối với người lao động làm theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và quá nửa thời hạn hợp đồng lao động đối với người làm theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục.

Khi sức khỏe của người lao động bình phục, thì người lao động được xem xét để tiếp tục giao kết hợp đồng lao động;

c) Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc;

d) Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại Điều 33 của Bộ luật này.

2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động người sử dụng lao động phải báo cho người lao động biết trước:

a) Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn;

b) Ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn;

c) Ít nhất 03 ngày làm việc đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này và đối với hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng.”

Trên đây là tư vấn của công ty Luật Việt Phong về Công ty chấm dứt hợp đồng lao động với người đi cai nghiện về có hợp pháp? Chúng tôi hi vọng rằng quý khách có thể vận dụng các kiến thức kể trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống. Nếu có vấn đề pháp lý nào khác cần tư vấn quý khách vui lòng gọi điện tới tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 của công ty Luật Việt Phong để gặp luật sư tư vấn và chuyên viên pháp lý. Công ty chấm dứt hợp đồng lao động với người đi cai nghiện về là hợp pháp hay không?

 

Bài viết được thực hiện bởi: Luật sư. Nguyễn Văn Đại

Để được giải đáp thắc mắc về: Công ty chấm dứt hợp đồng lao động với người đi cai nghiện về có hợp pháp?
Vui lòng gọi Tổng đài luật sư tư vấn pháp luật 24/7: 1900 6589

Để gửi Email tư vấn pháp luật, Báo giá dịch vụ pháp lý hoặc đặt Luật sư tư vấn pháp luật trực tiếp.
Vui lòng click tại đây

CÔNG TY LUẬT TNHH VIỆT PHONG

 Hà Nội – Biệt thự 2.11 đường Nguyễn Xuân Khoát, KĐT Ngoại Giao Đoàn, Q. Bắc Từ Liêm
– Số 82 Nguyễn Tuân, Phường Thanh Xuân Trung, Quận Thanh Xuân

 Bắc Giang – 65-67 khu Minh Khai, Thị trấn Chũ, huyện Lục Ngạn

Vui lòng đánh giá bài viết

Nếu có vướng mắc bạn vui lòng liên hệ với Luật sư 1900 633 283

hoặc Bạn có thể click vào các ô dưới đây để gửi Email cho chúng tôi, Luật Việt Phong luôn sẵn sàng để hỗ trợ bạn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chủ đề