Gây tai nạn giao thông dẫn đến hậu quả chết người có phải bồi thường không?

Tóm tắt câu hỏi:

Gây tai nạn giao thông dẫn đến hậu quả chết người có phải bồi thường không?

Tôi xin gửi tới quý Công ty một sự việc như sau:

          Vào 20h58 phút ngày 21/04/2016, tại xã Yên Lạc – Yên Thủy – Hòa Bình (quê tôi), em trai tôi có đi xe máy và xảy ra tai nạn với hai vợ chồng chú Hưng (người cùng xã) đi ngược chiều. Em trai tôi đi phần đường của mình, còn hai vợ chồng cô chú kia đang đi thì bất ngờ rẽ vào cây xăng để mua xăng nhưng không xi nhan, đến lúc gần xảy ra va chạm mới có tín hiệu đèn xi nhan (có camera của cây xăng ghi lại), em trai tôi không kịp xử lý và đâm vào xe của chú Hưng. Hậu quả là em trai tôi nằm bất động tại chỗ, còn cô chú kia thì không sao. Em trai tôi được người dân đưa vào bệnh viện huyện ở gần đó để cấp cứu, các bác sĩ khám xong cho em trai tôi thở oxy và quyết định chuyển lên Việt Đức, đang trên đường đi Việt Đức được 30km thì em trai tôi tắt thở và xe đưa về nhà xác bệnh viện. Tại đây pháp y tỉnh Hòa Bình về khám nghiệm và kết luận em trai tôi gãy 2 đốt sống cổ. Tại hiện trường lúc xảy ra tai nạn công an giao thông đến khám nghiệm, đo nồng độ cồn thì em trai tôi là 0,4mg/1 khí thở, còn chú Hưng là 1,4mg/1 khí thở, và lấy video do camera của cây xăng ghi lại. Kết quả sơ bộ kết luận là do chú Hưng chuyển hướng không an toàn dẫn đến tai nạn giao thông.

          Do tai nạn giao thông không ai mong muốn nên hai bên gia đình quyết định giải quyết tình cảm. Trong khi làm tang cho em trai tôi thì vợ chú Hưng và anh em có lên phúng viếng 2 triệu đồng. Sau đó khoảng 10 ngày thì nhà họ có lên và nói là hỗ trợ gia đình 35 triệu đồng tiền mai táng phí nhưng gia đình nhà tôi không đồng ý, mẹ tôi bảo ít nhất cũng là 70 triệu vì sau này còn xây nhà mới cho em trai tôi cho trọn vẹn. Gia đình nhà họ bảo về bàn bạc, và sau đó không thấy lên nói chuyện nữa. Dù không chính thức nói nhưng anh em nhà họ nói chuyện lại với anh em nhà tôi là nếu 70 triệu thì họ không đồng ý và cứ để pháp luật giải quyết, và mẹ tôi quyết định là sẽ làm đơn ra pháp luật để đòi lại công bằng cho em trai tôi.

    Xin quý Công ty cho tôi hỏi là:

1. Để pháp luật giải quyết thì gia đình tôi phải chuẩn bị những giấy tờ, hồ sơ như thế nào? Đơn từ viết ra sao? Những ai chứng nhận? và gửi tới cơ quan pháp luật nào ạ?

2. Với sự việc như trên thì khi ra pháp luật, gia đình tôi có được đền bù không? Mức đền bù là bao nhiêu? Nếu nhà họ nhất định không đền bù thì sao? Chú Hưng có phải chịu trách nhiệm hình sự không và mức án là bao nhiêu?

      Xin nói thêm là em trai tôi năm nay 27 tuổi, chưa có vợ con và đang ở cùng bố mẹ tôi, em trai tôi và bố mẹ làm nghề bán bún phở ăn sáng, em trai tôi làm chính, bố mẹ chỉ phụ giúp thôi.

      Xin quý Công ty tư vấn giúp tôi và gia đình được biết để đòi lại công bằng cho em trai tôi. Tôi xin chân thành cảm ơn!

Người gửi: Nguyễn Thanh Tùng (Hà Nội).

Gây tai nạn giao thông dẫn đến hậu quả chết người có phải bồi thường không?

( Ảnh minh họa:Internet)
Tư vấn luật: 1900 6589

 

Luật sư tư vấn:

Xin chào bạn! cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình tới luật Việt Phong. Về câu hỏi của bạn, công ty luật Việt Phong xin tư vấn và hướng dẫn cho bạn như sau:

1/ Căn cứ pháp luật

– Bộ Luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009);

–  Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011);

– Bộ luật dân sự năm 2005;

– Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08 tháng 7 năm 2006  của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ Luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

1/ Về trách nhiệm của người vi phạm.

Theo như thông tin bạn cung cấp, em trai bạn đi xe máy và xảy ra tai nạn giao thông. Lỗi do chú Hưng đang đi bất ngờ sang đường không xi nhan. Tại thời điểm xảy ra tai nạn Công an đo nồng độ cồn trong máu: 1,4mg/1 lít khí thở. Kết quả sơ bộ kết luận lỗi do chú Hưng chuyển hướng không an toàn dẫn đến tai nạn giao thông hậu quả chết người.

Tại Khoản 1, Điều 202 Bộ luật Hình sự  năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định:

“Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm” 

Như vậy, người điều khiển xe (được bạn xác định là Chú Hưng) trong trường hợp này đã vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ (sang đường không xin nhan đồng thời có nông độ cồn trong máu vượt quá 0,4 miligam/1 lít khí thở) gây thiệt hại đến tính mạng của người khác. Với hành vi này, người điều khiển xe có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

Khi quyết định hình phạt, Tòa án sẽ căn cứ đến các yếu tố như tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khác để có quyết định cho phù hợp.

Do bạn không không nói rõ người gây tại nạn lúc đó có cứu giúp hay bỏ chạy luôn. Nếu người đó không cứu giúp thì có thể được xem là tình tiết tăng nặng của Khoản 1 Điều 202 này: “Phạm tội  thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:…Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn”.

Vì vậy, Tòa án có thể xem xét hành vi phạm tội của tội phạm để làm căn cứ định khung mức hình phạt cũng như mức bồi thường cho em trai bạn.

2/ Về việc trình báo cơ quan có thẩm quyền.

Tại Điều 101, Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định: “Công dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan khác, tổ chức. Nếu tố giác bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản và có chữ ký của người tố giác. Cơ quan, tổ chức khi phát hiện hoặc nhận được tố giác của công dân phải báo tin ngay về tội phạm cho Cơ quan điều tra bằng văn bản”

Căn cứ theo quy định quy định tại Điều 33, Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự 2004, thẩm quyền giải quyết các tranh chấp dân sự của Tòa án các cấp như sau:

a. Toà án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp dân sự quy định tại điều 25 của Bộ Luật tố tụng dân sự:.. 6. Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng;”

Đồng thời theo quy định tại khoản 1, Điều 35 thì thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự theo lãnh thổ được xác định như sau: “Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của BLTTDS;”

Như vậy, trong trường hợp này, gia đình bạn có quyền khởi kiện vụ án dân sự ra Tòa án nhân dân huyện nơi xảy ra vụ tai nạn hoặc tòa án nơi chủ xe hoặc người điều khiển xe là cá nhân cư trú để được giải quyết. 

Bạn cần chuẩn bị những hồ sơ sau:

– Đơn khởi kiện;

– Các chứng cứ có liên quan (Hồ sơ bệnh án, chi phí khám chữa bệnh, chi phí mai táng,…);

– Các giấy tờ khác có liên quan đến vụ án.

 3/ Gây tai nạn giao thông dẫn đến hậu quả chết người có phải bồi thường không?

Ngoài trách nhiệm hình sự mà người gây ra tai nạn giao thông phải gánh chịu, thì người gây tai nạn phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho gia đình nạn nhân.

Theo quy định tại Điều 610 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì chủ gây tai nạn phải có nghĩa vụ bồi thường các khoản như:

– Chi phí hợp lý cho việc mai táng;

– Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng (nạn nhân đang nuôi cha già 69 tuổi);

– Một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại.

Mức bồi thường các bên có thể thỏa thuận, trường hợp không thỏa thuận được thì mức tối đa không quá sáu mươi tháng lương (60) tối thiểu do Nhà nước quy định.

Chi tiết các mục bồi thường đã được hướng dẫn cụ thể tại mục 2, phần II nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 8/7/2006 về hướng dẫn Bộ luật dân sự năm 2005 về Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Tại Mục II.1, Nghị quyết số 03/2006/NQ- HĐTP ngày 08 tháng 7 năm 2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ Luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có hướng dẫn chi tiết:

“Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm được bồi thường bao gồm:

1.1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại bao gồm: tiền thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại đi cấp cứu tại cơ sở y tế; tiền thuốc và tiền mua các thiết bị y tế, chi phí chiếu, chụp X quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu, vật lý trị liệu… theo chỉ định của bác sỹ; tiền viện phí; tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ cho người bị thiệt hại theo chỉ định của bác sỹ; các chi phí thực tế, cần thiết khác cho người bị thiệt hại (nếu có) và các chi phí cho việc lắp chân giả, tay giả, mắt giả, mua xe lăn, xe đẩy, nạng chống và khắc phục thẩm mỹ… để hỗ trợ hoặc thay thế một phần chức năng của cơ thể bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại (nếu có)

1.3. Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị.

a) Chi phí hợp lý cho người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị bao gồm: tiền tàu, xe đi lại, tiền thuê nhà trọ theo giá trung bình ở địa phương nơi thực hiện việc chi phí (nếu có) cho một trong những người chăm sóc cho người bị thiệt hại trong thời gian điều trị do cần thiết hoặc theo yêu cầu của cơ sở y tế…..

1.5. Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khoẻ bị xâm phạm.

a) Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khoẻ bị xâm phạm được bồi thường cho chính người bị thiệt hại.

b) Trong mọi trường hợp, khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. 

c) Mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại trước hết do các bên thoả thuận. Nếu không thoả thuận được, thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, nhưng tối đa không quá 30 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường.”

Căn cứ vào các quy định pháp lý nêu trên, bạn nên tổng hợp tất cả các hồ sơ cần thiết để yêu cầu chủ xe hoặc người đang điều khiển xe phải bồi thường thiệt hại, nếu họ không tự nguyện bồi thường thiệt hại thì gia đình bạn có quyền khởi kiện vụ án dân sự ra Tòa án nhân dân huyện nơi xảy ra vụ tai nạn hoặc tòa án nơi chủ xe hoặc người điều khiển xe là cá nhân cư trú, thời hiệu khởi kiện trong trường hợp này là 02 năm kể từ ngày quyền, lợi ích hợp pháp của gia đình bạn bị xâm hại.

Lưu ý: Đối với trường hợp này thì bạn nên xác định rõ chủ xe cũng là người đang điều khiển xe hay người điều khiển xe chỉ là người đang thuê xe, mượn xe, được giao xe và việc sử dụng này là hợp pháp hay bất hợp pháp từ đó xác định đối tượng khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án.

Trên đây là tư vấn của công ty Luật Việt Phong về gây tai nạn giao thông dẫn đến hậu quả chết người có phải bồi thường không? Chúng tôi hi vọng rằng quý khách có thể vận dụng các kiến thức kể trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống. Nếu có vấn đề pháp lý nào khác cần tư vấn quý khách vui lòng gọi điện tới tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 của công ty Luật Việt Phong để gặp luật sư tư vấn và chuyên viên pháp lý.

Bài viết được thực hiện bởi: Luật sư. Nguyễn Văn Đại (Công ty Luật TNHH Việt Phong)

Để được giải đáp thắc mắc về: Gây tai nạn giao thông dẫn đến hậu quả chết người có phải bồi thường không?
Vui lòng gọi Tổng đài luật sư tư vấn pháp luật 24/7: 1900 6589

Để gửi Email tư vấn pháp luật, Báo giá dịch vụ pháp lý hoặc đặt Luật sư tư vấn pháp luật trực tiếp.
Vui lòng click tại đây

CÔNG TY LUẬT TNHH VIỆT PHONG

 Hà Nội – Biệt thự 2.11 đường Nguyễn Xuân Khoát, KĐT Ngoại Giao Đoàn, Q. Bắc Từ Liêm
– Số 82 Nguyễn Tuân, Phường Thanh Xuân Trung, Quận Thanh Xuân

 Bắc Giang – 65-67 khu Minh Khai, Thị trấn Chũ, huyện Lục Ngạn

 Hưng Yên – Số 73 đường Nguyễn Văn Linh, Phường Bần Yên Nhân, Thị xã Mỹ Hào

Vui lòng đánh giá bài viết

Nếu có vướng mắc bạn vui lòng liên hệ với Luật sư 1900 633 283

hoặc Bạn có thể click vào các ô dưới đây để gửi Email cho chúng tôi, Luật Việt Phong luôn sẵn sàng để hỗ trợ bạn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chủ đề