Lạm dụng tín nhiệm vay tiền đánh bạc

Tóm tắt câu hỏi:

Chào luật sư, tôi có câu hỏi như sau, anh C vay của chị M 20 triệu đồng để đi buôn trâu. Trên đường đi buôn trâu. Trên đường đi buôn trâu, anh C tham gia đánh bạc và thua 50 triệu  đồng nên không có tiền trả nợ. Vậy luật sư có thể tư vấn làm thế nào để bảo vệ quyền lợi cho chị M và hành vi của anh C phạm tội gì theo pháp luật hiện hành. Xin cám ơn.

Người gửi:  Hồng Loan ( Nam Định)

tu van phap luat

 

( Ảnh minh họa:Internet)
Tư vấn luật: 1900 6589

Luật sư tư vấn:

Xin chào bạn! cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình tới luật Việt Phong. Về câu hỏi của bạn, công ty luật Việt Phong xin tư vấn và hướng dẫn cho bạn như sau:

1. Cơ sở pháp lý

Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009. về Tội đánh bạc 
1. Người nào đánh bạc dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này và Điều 249 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tính chất chuyên nghiệp;
b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị rất lớn hoặc đặc biệt lớn;
c) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng
Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 
1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:
 a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;
 b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ trên năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
đ) Tái phạm nguy hiểm;
e) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này.

2. Tư vấn giải quyết vấn đề

Theo quy định trên của Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009, anh C đã vi phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và tội đánh bạc. Cụ thể anh C đã vay tiền chị M để mua trâu nhưng lại thay vào đó là đi đánh bạc khiến nợ nần chồng chất. Anh C đã lợi dùng uy tín bản thân để vay tiền, dù mục đích ban đầu vay tiền không phải là đánh bạc. 

Tội làm dụng chiêm đoạt tài sản được quy định tại Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng  hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt  hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thuộc một trong các trường hợp sau đây: vay, mượn, thuê tài sản  của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các các hình thức rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó; vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản  của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

Như vậy, theo quy định trên, mức hình phạt của anh thuộc khung hình phạt đầu tiên là bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm đối với viêc vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. Ngoài ra, anh C cũng bị áp dụng khung hình phạt về tội đánh bạc theo quy định Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009, 

Để bảo vệ quyền lợi cho mình, chị M nên đàm phán và thỏa thuận lại về việc trả nợ với anh C, xác định thời hạn để hoàn trả hết nợ của anh M, nếu không thỏa thuận được, chị M có thể báo với cơ quan có thẩm quyền để điều tra, hoặc có thể truy  cứu trách nhiệm hình sự của anh 

Trên đây là tư vấn của công ty Luật Việt Phong  về Lạm dụng tín nhiệm vay tiền đánh bạc. Chúng tôi hi vọng rằng quý khách có thể vận dụng các kiến thức kể trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống. Nếu có vấn đề pháp lý nào khác cần tư vấn quý khách vui lòng gọi điện tới tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 của công ty Luật Việt Phong để gặp luật sư tư vấn và chuyên viên pháp lý.

Bài viết được thực hiện bởi: Luật sư. Nguyễn Văn Đại

Để được giải đáp thắc mắc về: Lạm dụng tín nhiệm vay tiền đánh bạc
Vui lòng gọi Tổng đài luật sư tư vấn pháp luật 24/7: 1900 6589

Để gửi Email tư vấn pháp luật, Báo giá dịch vụ pháp lý hoặc đặt Luật sư tư vấn pháp luật trực tiếp.
Vui lòng click tại đây

CÔNG TY LUẬT TNHH VIỆT PHONG

 Hà Nội – Biệt thự 2.11 đường Nguyễn Xuân Khoát, KĐT Ngoại Giao Đoàn, Q. Bắc Từ Liêm
– Số 82 Nguyễn Tuân, Phường Thanh Xuân Trung, Quận Thanh Xuân

 Bắc Giang – 65-67 khu Minh Khai, Thị trấn Chũ, huyện Lục Ngạn

Vui lòng đánh giá bài viết

Nếu có vướng mắc bạn vui lòng liên hệ với Luật sư 1900 633 283

hoặc Bạn có thể click vào các ô dưới đây để gửi Email cho chúng tôi, Luật Việt Phong luôn sẵn sàng để hỗ trợ bạn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chủ đề