Người bị rơi xuống nước mà không cứu giúp dẫn đến chết thì có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?

Tóm tắt tình huống:

Xin chào Luật sư tư vấn, cho tôi hỏi người bị rơi xuống nước mà không cứu giúp dẫn đến chết thì có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Người gửi: Nguyễn Mạnh Quỳnh 
duoi nc 1494169347 1

Luật sư tư vấn:

 Xin chào bạn! Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình tới Luật Việt Phong. Về câu hỏi của bạn, công ty Luật Việt Phong xin tư vấn và hướng dẫn bạn như sau:

1. Căn cứ pháp lý

– Bộ luật Hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).

2. Người bị rơi xuống nước mà không cứu giúp dẫn đến chết thì có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?

Để có thể xác định được có bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay không thì chúng ta cần xem xét quy định tại Điều 102 Bộ luật Hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định về Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng:
“1. Người nào thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện mà không cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm:
a) Người không cứu giúp  là người đã vô ý gây ra tình trạng nguy hiểm;
b) Người không cứu giúp là người mà theo pháp luật hay nghề nghiệp có nghĩa vụ phải cứu giúp.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”
Cố ý không cứu người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng là hành vi thấy người đang ở trong tình trạng sắp chết, tuy có điều kiện cứu mà không cứu dẫn đến người đó bị chết.
Để có thể xem xét xem rằng có bị truy cứu trách nhiệm về tội này không, thì ta cần xem xét các Các dấu hiệu cơ bản sau đây:
Về phía người phạm tội 
– Người phạm tội có điều kiện mà không cứu giúp.
Một người khi thấy người khác ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, có điều kiện cứu được người đó khỏi chết mà không cứu thì bị coi là có tội.
Điều kiện để cứu được người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng là khả năng thực tế có thể cứu được người sắp chết. Khả năng này có thể do bẩm sinh, do rèn luyện, do học tập hoặc do tính chất nghề nghiệp mà có.
Khi xét một trường hợp cụ thể lại phải căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể lúc xảy ra tình trạng nguy hiểm đến tính mạng của người bị nạn, chứ không chỉ căn cứ vào khả năng sẵn có của người cứu giúp. Ngược lại, điều kiện có nhưng người ở trong điều kiện lại không có khả năng mà không cứu được người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng đẫn đến người này bị chết thì cũng không coi là phạm tội.
– Người phạm tội phải là người không có hành động nào nhằm cứu người bị hại thì mới coi là phạm tội.
Không hành động là một biểu hiện tiêu cực, lẽ ra họ phải có nghĩa vụ làm mọi việc để loại trừ sự nguy hiểm cho xã hội nhưng lại không làm nên dẫn đến hậu quả. Nếu họ đã có hành động nhưng vẫn không cứu được người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng thì cũng không coi là phạm tội. Ví dụ: Một người thấy một người sắp chết đuối đã bơi ra giữa dòng sông để cứu nhưng bơi gần tới nơi thì nạn nhân đã chìm, bị nước cuốn đi, người này đã lặn xuống mò tìm kiếm nhưng vẫn không thấy. Tuy nhiên, nếu đang hành động, không có một trở ngại nào ngăn cản mà tự ý dừng lại mặc dù vẫn còn điều kiện cứu mà không cứu để người bị nạn chết thì vẫn bị coi là phạm tội.
– Lỗi của người phạm tội phải là do cố ý.
Người phạm tội biết rõ người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng nếu không cứu được thì sẽ chết và biết rõ mình có điều kiện cứu mà cố tình không cứu. Nếu còn nhận thức không rõ ràng tình trạng của nạn nhân hoặc khả năng của mình thì không coi là phạm tội.
Về phía nạn nhân:
– Nạn nhân phải thực sự đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng.
Người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng là trường hợp họ sắp bị chết, nhưng nếu được cứu thì sẽ không bị chết như: sắp chết, bị ngộ độc, bị thương nặng ra nhiều máu chưa được băng bó, mắc bệnh hiểm nghèo v.v… Nhưng nếu nạn nhân chưa ở trong tình trạng trên có người biết nhưng không cứu giúp, sau đó bị chết vì lý do khác thì người không cứu trước đó không coi là phạm tội.
– Người bị hại phải bị chết thì hành vi không cứu giúp mới cấu thành tội phạm
Người không được cứu phải chết thì người không cứu mới là phạm tội, nếu trước đó có người cố tình không cứu, nhưng sau đó lại được người khác cứu nên không chết thì người có hành vi cố tình không cứu trước đó chưa phải là hành vi phạm tội này.
Như vậy, nếu như không đáp ứng đầy đủ các dấu hiệu phạm tội trên thì người không thực hiện việc cứu giúp người khác dẫn tới người đó chết thì sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự; Ngược lại nếu như đáp ứng đủ các điều kiện trên đây thì khi một người nào đó thấy người bị rơi xuống nước dẫn tới người đó bị chết thì họ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều 102 Bộ luật Hình sự).
Trên đây là tư vấn của công ty Luật Việt Phong về Người bị rơi xuống nước mà không cứu giúp dẫn đến chết thì có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không? Chúng tôi hi vọng rằng bạn có thể vận dụng các kiến thức kể trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống. Nếu có vấn đề pháp lý nào khác cần tư vấn bạn vui lòng gọi điện tới tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 của Công ty Luật Việt Phong để gặp luật sư tư vấn và chuyên viên pháp lý.
Chuyên viên: Nguyễn Thị Châu

Bài viết được thực hiện bởi: Luật sư. Nguyễn Văn Đại

Để được giải đáp thắc mắc về: Người bị rơi xuống nước mà không cứu giúp dẫn đến chết thì có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Vui lòng gọi Tổng đài luật sư tư vấn pháp luật 24/7: 1900 6589

Để gửi Email tư vấn pháp luật, Báo giá dịch vụ pháp lý hoặc đặt Luật sư tư vấn pháp luật trực tiếp.
Vui lòng click tại đây

CÔNG TY LUẬT TNHH VIỆT PHONG

 Hà Nội – Biệt thự 2.11 đường Nguyễn Xuân Khoát, KĐT Ngoại Giao Đoàn, Q. Bắc Từ Liêm
– Số 82 Nguyễn Tuân, Phường Thanh Xuân Trung, Quận Thanh Xuân

 Bắc Giang – 65-67 khu Minh Khai, Thị trấn Chũ, huyện Lục Ngạn

Vui lòng đánh giá bài viết

Nếu có vướng mắc bạn vui lòng liên hệ với Luật sư 1900 633 283

hoặc Bạn có thể click vào các ô dưới đây để gửi Email cho chúng tôi, Luật Việt Phong luôn sẵn sàng để hỗ trợ bạn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chủ đề