Quyền sử dụng đất đã tặng cho có đòi lại được hay không?

Tóm tắt câu hỏi:

Quyền sử dụng đất đã tặng cho có đòi lại được hay không?

Xin chào Ban tư vấn Công ty Luật Việt Phong! Tôi có câu hỏi sau rất mong nhận được ý kiến tư vấn của quý Công ty! Vợ, chồng tôi có 5 người con, trong đó L là người con trai duy nhất. Khi tuổi già, sức yếu vợ, chồng tôi quyết định trao toàn bộ diện tích nhà, đất cho vợ, chồng  L. Để thực hiện ước nguyện của mình ngày 09/09/2009, vợ, chồng, tôi  đã đến phòng Công chứng số 1, thành phố H làm hợp đồng tặng cho nhà, đất của mình cho vợ, chồng  L (mảnh đất này đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất): với điều kiện vợ, chồng  L phải có nghĩa vụ phụng dưỡng bố mẹ già và sau này chăm lo mồ mả, hương khói tổ tiên. Sau khi được tặng cho nhà, anh L phá ngôi nhà cũ của vợ chồng tôi và xây dựng một ngôi nhà mới. Thời gian đầu, tình hình sống chung của vợ, chồng L với chúng tôi rất tốt. Nhưng càng về sau, vợ ,chồng L rất coi thường chúng tôi, nhìn chung không chăm lo cho chúng tôi. Do vậy,  phát sinh mâu thuẫn, mối quan hệ giữa vợ chồng L với vợ, chồng tôi diễn ra rất căng thẳng dẫn đến không thể tiếp tục sống chung trong cùng một ngôi nhà. Tuy nhiên, do không còn chỗ ở khác nên vợ, chồng tôi muốn đòi lại mảnh đất của mình. DO đó, tôi muốn hỏi Luật sư, Vợ chồng tôi có thể đòi lại được quyền sử dụng đất của mình không? Vợ, chồng tôi xin chân thành cảm ơn Luật sư! 

Người gửi: Nguyễn Văn Thuật (Hưng Yên).

Quyền sử dụng đất đã tặng cho có đòi lại được hay không?

 

Luật sư tư vấn:

Xin chào chú! Cảm ơn chú đã gửi câu hỏi của mình tới Luật Việt Phong. Về câu hỏi của chú, công ty Luật Việt Phong xin tư vấn và hướng dẫn cho chú như sau:

1/ Căn cứ pháp lý.

– Bộ luật dân sự năm 2005;

– Luật Đất đai năm 2013;

2/Quyền sử dụng đất đã tặng cho có đòi lại được hay không?

Căn cứ vào đối tượng hợp đồng – quyền sử dụng đất và nhà ở gắn liền với đất thì đây là một loại tài sản được ghi nhận tại Điều 174, Bộ luật dân sự năm 2005.

Mà hợp đồng này là hợp đồng tặng cho tài sản, cụ thể là hợp đồng tặng cho bất động sản. Tại Điều 467, Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về tặng cho bất động sản, như sau:

“Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu theo quy định của pháp luật bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu.

 Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản”.

Theo đó, hợp đồng tặng cho tài sản giữa vợ chồng chú và vợ chồng anh L sẽ phát sinh hiệu lực tại thời điểm công chứng, chứng thực. Tức ngày,  09/09/2009, hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và nhà ở sẽ phát sinh hiệu lực.

Tuy nhiên, hợp đồng trên lại có điều khoản thỏa thuận là cô, chú tặng cho quyền sử dụng đất, nhà ở cho vợ, chồng L với điều kiện phải phụng dưỡng cô, chú và chăm lo mồ mả, hương khói tổ tiên. Do vậy, hợp đồng này là hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện. Theo khoản 3, Điều 470, Bộ luật dân sự năm  2005 quy định về tặng cho tài sản có điều kiện như sau:

“Trong trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ sau khi tặng cho mà bên được tặng cho không thực hiện thì bên tặng cho có quyền đòi lại tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại”.

Theo đó, vợ, chồng L phải thực hiện hai nghĩa vụ: phụng dưỡng cô, chú và chăm lo mồ mả, hương khói tổ tiên tại mảnh đất này. Tức là, quyền sử dụng đất và nhà ở mà cô, chú tặng cho vợ, chồng L chỉ thuộc về vợ, chồng L khi và chỉ khi vợ, chồng L đã thực hiện xong nghĩa vụ mà cô, chú đã đưa ra trong hợp đồng. Điều này, đồng nghĩa hợp đồng tặng cho chỉ phát sinh hiệu lực khi bên được tặng cho thực hiện xong nghĩa vụ.

Do đó, với việc không chăm sóc, nuôi dưỡng, tôn trọng cô, chú – nghĩa vụ, điều kiện đầu tiên trong hợp đồng tặng cho tài sản thì vợ, chồng L đã vi phạm điều kiện được nhận tài sản. Vì vậy, cô, chú có quyền kiện đòi tài sản của mình. Theo đó, cô, chú cần cùng với vợ, chồng anh L tự hòa giải, nếu không tự hòa giải được thì gửi đơn đến UBND xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải, nếu hòa giải không thành mới gửi đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện nơi có bất động sản tranh chấp giải quyết (theo quy định tại Điều 202, Điều 203 Luật Đất đai 2013).

Như vậy, quyền sử dụng đất của cô, chú có thể đòi lại được nếu cô, chú chứng minh được vợ, chồng anh L vi phạm điều kiện hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện.

Trên đây là tư vấn của công ty Luật Việt Phong về quyền sử dụng đất đã tặng cho có đòi lại được hay không? Chúng tôi hi vọng rằng quý khách có thể vận dụng các kiến thức kể trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống. Nếu có vấn đề pháp lý nào khác cần tư vấn quý khách vui lòng gọi điện tới tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 của công ty Luật Việt Phong để gặp luật sư tư vấn và chuyên viên pháp lý.

 

Bài viết được thực hiện bởi: Luật sư. Nguyễn Văn Đại (Công ty Luật TNHH Việt Phong)

Để được giải đáp thắc mắc về: Quyền sử dụng đất đã tặng cho có đòi lại được hay không?
Vui lòng gọi Tổng đài luật sư tư vấn pháp luật 24/7: 1900 6589

Để gửi Email tư vấn pháp luật, Báo giá dịch vụ pháp lý hoặc đặt Luật sư tư vấn pháp luật trực tiếp.
Vui lòng click tại đây

CÔNG TY LUẬT TNHH VIỆT PHONG

 Hà Nội – Biệt thự 2.11 đường Nguyễn Xuân Khoát, KĐT Ngoại Giao Đoàn, Q. Bắc Từ Liêm
– Số 82 Nguyễn Tuân, Phường Thanh Xuân Trung, Quận Thanh Xuân

 Bắc Giang – 65-67 khu Minh Khai, Thị trấn Chũ, huyện Lục Ngạn

Vui lòng đánh giá bài viết

Nếu có vướng mắc bạn vui lòng liên hệ với Luật sư 1900 633 283

hoặc Bạn có thể click vào các ô dưới đây để gửi Email cho chúng tôi, Luật Việt Phong luôn sẵn sàng để hỗ trợ bạn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chủ đề