Quyền trả lại đơn khởi kiện của Toà án

Posted on Tư vấn luật dân sự 197 lượt xem

Tóm tắt câu hỏi:

Quyền trả lại đơn khởi kiện của Toà án.

Chào luật sư! Tôi có một tình huống cần nhờ luật sư tư vấn như sau. Nhờ luật sư giúp đỡ.

A, B và C tranh chấp với D về việc thừa kế ngôi nhà tọa lạc trên diện tích đất 120m2 do cha mẹ A, B, C, D để lại và D đang quản lý, sử dụng. Tranh chấp chưa được hòa giải ở Ủy ban nhân dân cấp xã nhưng A, B, C đã khởi kiện D ra Tòa án. Tòa án yêu cầu các bên về hòa giải ở Ủy ban nhân dân cấp xã trước. Tòa án làm như vậy có đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự không? Và thời hiệu khởi kiện vụ án này là bao nhiêu?

Người hỏi: Phạm Văn Hơn (Thái Bình)

Quyền trả lại đơn khởi kiện của Toà án

( Ảnh minh họa:Internet)
Tư vấn luật: 1900 6589

Luật sư tư vấn:

Xin chào bạn! Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình tới Luật Việt Phong. Về câu hỏi của bạn, công ty Luật Việt Phong xin tư vấn và hướng dẫn bạn như sau:

1/ Căn cứ pháp lý

– Bộ luật dân sự năm 2005;

– Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có hiệu lực từ ngày 1.7.2016;

– Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án cấp sơ thẩm” của BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS;

– Nghị quyết số 03/2012/NQ- HĐTP của hội đồng thẩm phán;

2/ Thẩm quyền trả lại đơn khởi kiện của toà án.

Tranh chấp giữa A, B, C, D là tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở gắn liền với đất;

Căn cứ theo khoản 1 điều 192 bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có quy định chi tiết về các trường hợp thẩm phán trả lại đơn khởi kiện. Theo đó nếu trường hợp khởi kiện của A,B,C tại Toà án nằm trong các trường hợp nêu tại điều trên sẽ bị thẩm phán trả lại đơn khởi kiện.

Căn cứ theo Khoản 3, Điều 8, Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án cấp sơ thẩm” của BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS thì khi xác định điều kiện khởi kiện vụ án dân sự mà đối tượng khởi kiện là quyền sử dụng đất được quy định thực hiện như sau:

“3. Khi xác định điều kiện khởi kiện vụ án dân sự mà đối tượng khởi kiện là quyền sử dụng đất thì thực hiện như sau:

a) Đối với tranh chấp ai có quyền sử dụng đất thì phải tiến hành hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp theo quy định tại Điều 135 của Luật Đất đai.

b) Đối với tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất như: tranh chấp về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất, chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất,… thì không phải tiến hành hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp nhưng vẫn phải thực hiện thủ tục hoà giải theo quy định của BLTTDS.

Như vậy, tranh chấp này không cần hòa giải ở UBND xã, Tòa án phải thụ lý và tiến hành hòa giải trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án theo quy định của BLTTDS năm 2015.

3/ Về thời hiệu khởi kiện vụ án.

Căn cứ theo Điều 23, Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP: “Đối với tranh chấp dân sự mà văn bản quy phạm pháp luật có quy định về thời hiệu khởi kiện thì áp dụng thời hiệu khởi kiện được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật đó.”

Như vậy tranh chấp về thừa kế như trong tình huống bạn đưa ra sẽ áp dụng quy định về thời hiệu khởi kiện theo quy định của BLDS.

Căn cứ theo Điều 645, Bộ luật Dân sự năm 2005: “Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.

Căn cứ theo Khoản 1, Điều 633, Bộ luật Dân sự năm 2005: “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết”.

Như vậy, thời hiệu khởi kiện vụ án này là 10 năm, kể từ ngày cha mẹ của A, B, C và D (người để lại di sản) chết.

Trên đây là tư vấn của công ty Luật Việt Phong về Quyền trả lại đơn khởi kiện của Toà án. Chúng tôi hi vọng rằng bạn có thể vận dụng các kiến thức kể trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống. Nếu có vấn đề pháp lý nào khác cần tư vấn bạn vui lòng gọi điện tới tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 của Công ty Luật Việt Phong để gặp luật sư tư vấn và chuyên viên pháp lý.

Bài viết được thực hiện bởi: Luật sư. Nguyễn Văn Đại (Công ty Luật TNHH Việt Phong)

Để được giải đáp thắc mắc về: Quyền trả lại đơn khởi kiện của Toà án
Vui lòng gọi Tổng đài luật sư tư vấn pháp luật 24/7: 1900 6589

Để gửi Email tư vấn pháp luật, Báo giá dịch vụ pháp lý hoặc đặt Luật sư tư vấn pháp luật trực tiếp.
Vui lòng click tại đây

CÔNG TY LUẬT TNHH VIỆT PHONG

 Hà Nội – Biệt thự 2.11 đường Nguyễn Xuân Khoát, KĐT Ngoại Giao Đoàn, Q. Bắc Từ Liêm
– Số 82 Nguyễn Tuân, Phường Thanh Xuân Trung, Quận Thanh Xuân

 Bắc Giang – 65-67 khu Minh Khai, Thị trấn Chũ, huyện Lục Ngạn

 Hưng Yên – Số 73 đường Nguyễn Văn Linh, Phường Bần Yên Nhân, Thị xã Mỹ Hào

Vui lòng đánh giá bài viết

Nếu có vướng mắc bạn vui lòng liên hệ với Luật sư 1900 633 283

hoặc Bạn có thể click vào các ô dưới đây để gửi Email cho chúng tôi, Luật Việt Phong luôn sẵn sàng để hỗ trợ bạn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chủ đề