Luật Việt Phong xin cung cấp một số thông tin liên quan đến thực tiễn quy định về bồi thường thiệt hại của Nhà nước, giúp khách tham khảo
1. Cơ sở pháp lý
Luật trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước năm 2009 quy định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án; thủ tục giải quyết bồi thường thiệt hại; quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại; kinh phí bồi thường và trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại.
2. Thực tiễn giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Báo cáo của Bộ Tư pháp cho thấy, sau sáu năm thực hiện Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, các cơ quan có trách nhiệm bồi thường chỉ thụ lý, giải quyết được 258 vụ việc yêu cầu bồi thường thiệt hại, trong đó, có 204 vụ việc đã có Quyết định giải quyết bồi thường có hiệu lực với số tiền bồi thường hơn 111 tỉ đồng, nhưng mới chi trả được gần 49 tỉ đồng cho 142 vụ việc.
Vấn đề mấu chốt trong việc yêu cầu bồi thường của người bị thiệt hại là căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường được luật quy định rất phức tạp và khó khăn cho người bị thiệt hại.
Cụ thể, Điều 6 Luật trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước năm 2009 về căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường quy định:
– Phải có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật;
– Có thiệt hại thực tế do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra đối với người bị thiệt hại;
– Có bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người bị thiệt hại thuộc các trường hợp được bồi thường;
– Có thiệt hại thực tế do người tiến hành tố tụng hình sự gây ra đối với người bị thiệt hại.
Tuy nhiên, trên thực tế, để chứng minh đầy đủ các căn cứ trên để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một trách nhiệm khó khăn, bời những lý do sau:
– Để có văn bản xác định hành vi sai trái của người thi hành công vụ là cả một vấn đề, thậm chí các cơ quan còn né tránh không ra văn bản hoặc có ban hành văn bản thì mang nội dung chung chung mà không ghi nhận sự sai trái đó.
– Việc chứng minh có thiệt hại thực tế xảy ra cũng là một vấn đề khó khăn, bởi người bị thiệt hại là cá nhân, tổ chức nhưng không có công cụ gì trong tay mà chứng minh là có thiệt hại thực tế xảy ra.
– Không quy định rõ đối tượng của bồi thường đối với cá nhân, tổ chức nước ngoài thì được điều chỉnh ra sao và việc bồi thường thực hiện như thế nào cũng gây khó khăn cho công tác giải quyết bồi thường.
– Thực tiễn còn nhiều trường hợp khác đặt ra không được bồi thường mặc dù cũng bị thiệt hại, như: những trường hợp các công trình xây dựng hoặc biến cố khác của cơ quan Nhà nước mà gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức (các công trình đang xây dựng do sập bê tông vào người đi đường, chết đuối do rơi vào hố đang thi công chẳng hạn)
3. Định hướng sửa đổi
Từ thực tiễn đó, Bộ Tư pháp cho rằng Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước cần có quy định rõ hơn, đồng thời hoàn thiện trong việc hợp tác quốc tế đối với hoạt động trách nhiệm bồi thường của nhà nước. Ngoài phạm vi trong ba lĩnh vực là quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án thì cần mở rộng hơn, đặc biệt là những trường hợp thực tiễn xảy ra nhiều, hoặc trường hợp cơ quan Nhà nước ký hợp đồng mà gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân hoặc ban hành văn bản pháp luật sai trái gây thiệt hại…
Hơn nữa, cần nghiên cứu xây dựng mô hình cơ quan giải quyết bồi thường tập trung, việc giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước tập trung về một cơ quan chuyên trách, cơ quan đó sẽ đại diện cho nhà nước để tham gia tố tụng. Theo đó, cơ quan quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại không trực tiếp giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại; khi phát sinh quyền yêu cầu bồi thường nhà nước, người bị thiệt hại có quyền gửi đơn yêu cầu cơ quan chuyên trách giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Trường hợp hết thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật hoặc người bị thiệt hại không đồng ý với quyết định của cơ quan chuyên trách giải quyết bồi thường thì có thể khởi kiện ra Tòa án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại theo quy định chung của pháp luật tố tụng dân sự
Nguồn tham khảo:
http://www.thesaigontimes.vn/141100/Sua-luat-de-thay-doi-cach-Nha-nuoc-boi-thuong-cho-dan.html
Trên đây là tư vấn của công ty Luật Việt Phong về Thực tiễn quy định về bồi thường thiệt hại của Nhà nước . Chúng tôi hi vọng rằng quý khách có thể vận dụng các kiến thức kể trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống. Nếu có vấn đề pháp lý nào khác cần tư vấn quý khách vui lòng gọi điện tới tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 của công ty Luật Việt Phong để gặp luật sư tư vấn và chuyên viên pháp lý.
Bài viết được thực hiện bởi: Luật sư. Nguyễn Văn Đại (Công ty Luật TNHH Việt Phong)
Để được giải đáp thắc mắc về: Thực tiễn quy định về bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Vui lòng gọi Tổng đài luật sư tư vấn pháp luật 24/7: 1900 6589
Để gửi Email tư vấn pháp luật, Báo giá dịch vụ pháp lý hoặc đặt Luật sư tư vấn pháp luật trực tiếp.
Vui lòng click tại đây
CÔNG TY LUẬT TNHH VIỆT PHONG
Hà Nội – Biệt thự 2.11 đường Nguyễn Xuân Khoát, KĐT Ngoại Giao Đoàn, Q. Bắc Từ Liêm
– Số 82 Nguyễn Tuân, Phường Thanh Xuân Trung, Quận Thanh Xuân
Bắc Giang – 65-67 khu Minh Khai, Thị trấn Chũ, huyện Lục Ngạn
Hưng Yên – Số 73 đường Nguyễn Văn Linh, Phường Bần Yên Nhân, Thị xã Mỹ Hào
Nếu có vướng mắc bạn vui lòng liên hệ với Luật sư 1900 633 283
hoặc Bạn có thể click vào các ô dưới đây để gửi Email cho chúng tôi, Luật Việt Phong luôn sẵn sàng để hỗ trợ bạn
- Điều kiện thủ tục xin cấp phép cho ô tô tải chạy giờ cao điểm nội ô cho chuyển phát nhanh
- Dịch vụ công bố thực phẩm chức năng
- Luật sư tư vấn thủ tục hỗ trợ chi phí mai táng đối với người khuyết tật
- Hàng hóa được phép trưng bày trong hội chợ triển lãm nước ngoài
- Nghị định số 110/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã