Tranh chấp lao động đã hoà giải thành toà án có thụ lý đơn?

Posted on Tư vấn luật lao động 243 lượt xem

Tóm tắt tính huống:

Kính gửi: Luật Việt Phong,
Công ty cho nghi việc trái phép, sau đó người lao động nhờ P. Lao động quận Bình Tân can thiệp và 2 bên ký biên bản hòa giải thành.
Sau đó, công ty chuyển tiền nhưng không gửi Quyết định thôi việc và chốt sổ lao động hơn 5 tháng. 
Sau khi kiện ra Tòa án Bình Tân thì công ty giải quyết, và người lao động yêu cầu bồi thường: tiền phép năm chưa thanh toán, tiền những trợ cấp thất nghiệp do công ty giải quyết trễ nên không đăng ký được, và tiền những ngày nghỉ do công ty không gửi Quyết định thôi việc. Sau đó Tòa án bác yêu cầu do 2 bên đã hòa giải thành (dù công ty thực hiện trễ ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của người lao động). Nhờ Luật sư tư vấn Tòa án ra tuyên án như vậy có hợp tình hợp lý không?
Mong sớm nhận được tin!
Trân trọng,
Người gửi: Trần Thanh Phong
27102016 15393 l

Luật sư tư vấn:

Xin chào bạn, cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến luật Việt Phong. Về vấn đề của bạn, công ty luật Việt Phong xin tư vấn giúp bạn như sau:

1. Căn cứ pháp lý

– Bộ luật Lao động năm 2012.

2. Tranh chấp lao động đã hoà giải thành toà án có thụ lý đơn?

Theo Điều 201 Bộ luật Lao động 2012 quy định về Trình tự, thủ tục hòa giải tranh chấp lao động cá nhân của hòa giải viên lao động như sau:
“1. Tranh chấp lao động cá nhân phải thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động trước khi yêu cầu tòa án giải quyết, trừ các tranh chấp lao động sau đây không bắt buộc phải qua thủ tục hòa giải: 
a) Về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc tranh chấp về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động;
b) Về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động;
c) Giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động;
d) Về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, về bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế. 
đ) Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
2. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu hoà giải, hòa giải viên lao động phải kết thúc việc hòa giải.
3. Tại phiên họp hoà giải phải có mặt hai bên tranh chấp. Các bên tranh chấp có thể uỷ quyền cho người khác tham gia phiên họp hoà giải.
Hoà giải viên lao động có trách nhiệm hướng dẫn các bên thương lượng. Trường hợp hai bên thỏa thuận được, hòa giải viên lao động lập biên bản hòa giải thành. 
Trường hợp hai bên không thỏa thuận được, hòa giải viên lao động đưa ra phương án hoà giải để hai bên xem xét. Trường hợp hai bên chấp nhận phương án hoà giải, hoà giải viên lao động lập biên bản hoà giải thành. 
Trường hợp hai bên không chấp nhận phương án hoà giải hoặc một bên tranh chấp đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng, thì hoà giải viên lao động lập biên bản hoà giải không thành. 
Biên bản có chữ ký của bên tranh chấp có mặt và hoà giải viên lao động. 
Bản sao biên bản hoà giải thành hoặc hoà giải không thành phải được gửi cho hai bên tranh chấp trong thời hạn 01 ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản.
4. Trong trường hợp hoà giải không thành hoặc một trong hai bên không thực hiện các thỏa thuận trong biên bản hòa giải thành hoặc hết thời hạn giải quyết theo quy định tại khoản 2 Điều này mà hoà giải viên lao động không tiến hành hoà giải thì mỗi bên tranh chấp có quyền yêu cầu Toà án giải quyết.”
Trong trường hợp bạn đưa ra không nêu rõ cụ thể nội dung của văn bản hoà giải vì thế nên chưa thể kết luận bên công ty có đã thực hiện theo đúng văn bản hoà giải hay chưa. Do đó có thể chia thành hai trường hợp như sau:
Trường hợp 1: phía công ty đã thực hiện đúng và đầy đủ theo văn bản hoà giải thì trường hợp này được coi là hoà giải thành và áp dụng theo trình tự, thủ tục hòa giải tranh chấp lao động cá nhân của hòa giải viên lao động thì trong trường hợp này người lao động không có quyền yêu cầu toà án giải quyết và việc toà án bác đơn là đúng. 
Trường hợp 2: Phía công ty chưa thực hiện hoặc thực hiện không đúng theo văn bản hoà giải thì theo khoản 4 Điều 201 ở trên thì bên người lao động có quyền yêu cầu toà giải quyết, đồng thời phía người lao động cũng phải đưa ra các căn cứ chứng minh việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng theo văn bản hoà giải của công ty thì phía thoà án mới thụ lý và giải quyết.
Trên đây là tư vấn của Công ty Luật Việt Phong về Tranh chấp lao động đã hoà giải thành toà án có thụ lý đơn?. Chúng tôi hi vọng rằng quý khách có thể vận dụng các kiến thức kể trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống. Nếu có vấn đề pháp lý nào khác cần tư vấn quý khách vui lòng gọi điện tới tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 của công ty Luật Việt Phong để gặp luật sư tư vấn và chuyên viên pháp lý.
Chuyên viên: Nguyễn Bảo Linh

Bài viết được thực hiện bởi: Luật sư. Nguyễn Văn Đại

Để được giải đáp thắc mắc về: Tranh chấp lao động đã hoà giải thành toà án có thụ lý đơn?
Vui lòng gọi Tổng đài luật sư tư vấn pháp luật 24/7: 1900 6589

Để gửi Email tư vấn pháp luật, Báo giá dịch vụ pháp lý hoặc đặt Luật sư tư vấn pháp luật trực tiếp.
Vui lòng click tại đây

CÔNG TY LUẬT TNHH VIỆT PHONG

 Hà Nội – Biệt thự 2.11 đường Nguyễn Xuân Khoát, KĐT Ngoại Giao Đoàn, Q. Bắc Từ Liêm
– Số 82 Nguyễn Tuân, Phường Thanh Xuân Trung, Quận Thanh Xuân

 Bắc Giang – 65-67 khu Minh Khai, Thị trấn Chũ, huyện Lục Ngạn

Vui lòng đánh giá bài viết

Nếu có vướng mắc bạn vui lòng liên hệ với Luật sư 1900 633 283

hoặc Bạn có thể click vào các ô dưới đây để gửi Email cho chúng tôi, Luật Việt Phong luôn sẵn sàng để hỗ trợ bạn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chủ đề