Vi phạm về thời hạn báo trước khi chấm dứt hợp đồng lao động

Tóm tắt câu hỏi:

Vi phạm về thời hạn báo trước khi chấm dứt hợp đồng lao động

Hợp đồng lao động của tôi có thời hạn 1 năm. Do gia đình tôi gặp vấn đề khó khăn nên tôi không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động. Tôi đã báo trước cho công ty trước 30 ngày nhưng chỉ làm đến ngày 20 ( tức còn 10 ngày nữa mới được nghỉ) thì tôi buộc bỏ công việc giữa chừng để thu xếp vào Thành phố Hồ Chí Minh. Vậy tôi có thể lấy sổ Bảo hiểm xã hội và nhận những trợ cấp xã hội không (tôi đã đóng bảo hiểm xã hội được hơn 1 năm). Tôi có bị coi là vi phạm quy định về thời hạn báo trước không và có cần phải bồi thường không? Rất mong nhận được câu trả lời sớm nhất từ Luật sư!

Người gửi: Lê Thị Hằng (Hưng Yên)

Vi phạm về thời hạn báo trước khi chấm dứt hợp đồng lao động

 

Luật sư tư vấn:

Xin chào bạn! cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình tới luật Việt Phong. Về câu hỏi của bạn, công ty luật Việt Phong xin tư vấn và hướng dẫn bạn như sau:

1. Cơ sở pháp lý 

–  Bộ luật Lao động năm 2012;

–  Nghị định 05/2015/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật Lao động 2012;

Luật Bảo hiểm xã hội 2014.

2. Vi phạm về thời hạn báo trước khi chấm dứt hợp đồng lao động

Theo như thông tin bạn cung cấp, có thể xác định được những thông tin sau: Hợp đồng lao động bạn ký kết với công ty là hợp đồng xác định thời hạn (1 năm); do gia đình gặp vấn đề khó khăn nên bạn đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động; bạn đã báo trước 30 ngày nhưng không thể làm hết được thời hạn bảo trước và phải nghỉ việc. 

Trước hết, về yêu cầu bạn có vi phạm quy định về thời hạn báo trước không và có phải bồi thường không.  

Theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2012, người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động nếu thuộc các trường hợp quy định tại Điều 37 bộ luật này. Do đó, tình huống bạn nêu ra chỉ nói là gia đình gặp khó khăn nên không thể tiếp tục làm việc được, trường hợp này có thể sẽ thuộc điểm d khoản 1 Điều 37 Bộ luật Lao động: “d) Bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động“. Tuy nhiên cần xem xét việc bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn có thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 11 Nghị định 05/2015/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật Lao động 2012:

2. Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động tại Điểm d Khoản 1 Điều 37 của Bộ luật Lao động trong các trường hợp sau đây:

a) Phải nghỉ việc để chăm sóc vợ hoặc chồng, bố đẻ, mẹ đẻ, bố vợ, mẹ vợ hoặc bố chồng, mẹ chồng, con đẻ, con nuôi bị ốm đau, tai nạn;

b) Khi ra nước ngoài sinh sống hoặc làm việc;

c) Gia đình gặp khó khăn do thiên tai, hỏa hoạn, địch họa, dịch bệnh hoặc chuyển chỗ ở mà người lao động đã tìm mọi biện pháp nhưng không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động.

Như vậy, nếu khó khăn của gia đình bạn thuộc một trong các trường hợp trên thì bạn có thể đơn phương chấm dứt hợp đồng, việc đơn phương chấm dứt hợp đồng của bạn là đúng pháp luật, đúng theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, khi muốn đơn phương chấm dứt hợp đồng bạn phải tuân thủ thời hạn báo trước. Trường hợp của bạn là hợp đồng xác định thời hạn do đó bạn phải báo trước cho công ty ít nhất 30 ngày. Bạn đã báo trước nhưng không làm hết 30 ngày mà chỉ làm được 20 ngày sau đó nghỉ việc, chính vì vậy mà bạn đã vi phạm quy định về thời hạn báo trước, do đó, bạn phải bồi thường cho công ty theo quy định tại Điều 43 Bộ luật Lao động năm 2012 về nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật:

1. Không được trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.

2. Nếu vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người sử dụng lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước.

3. Phải hoàn trả chi phí đào tạo cho người sử dụng lao động theo quy định tại Điều 62 của Bộ luật này.”

Do đó, khi vi phạm thời hạn báo trước bạn phải bồi thường cho người lao động nửa tháng tiền lương cộng với một khoản tiền tương ứng với tiền lương 10 ngày lao động mà bạn đã không báo trước đủ thời hạn. Vì trong tình huống bạn nêu ra, bạn nói là ký hợp đồng lao động với thời hạn 1 năm, do đó, không thể là hợp đồng đào tạo nghề giữa bạn và công ty được nên bạn sẽ không phải hoàn trả phí đào tạo cho công ty theo khoản 3 Điều luật này.

Về yêu cầu lấy lại sổ Bảo hiểm xã hội và nhận các trợ cấp xã hội.

Căn cứ Điều 47 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động:

1. Ít nhất 15 ngày trước ngày hợp đồng lao động xác định thời hạn hết hạn, người sử dụng lao động phải thông báo bằng văn bản cho người lao động biết thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động.

2. Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên; trường hợp đặc biệt, có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày.

3. Người sử dụng lao động có trách nhiệm hoàn thành thủ tục xác nhận và trả lại sổ bảo hiểm xã hội và những giấy tờ khác mà người sử dụng lao động đã giữ lại của người lao động.

4. Trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị chấm dứt hoạt động, bị giải thể, phá sản thì tiền lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và các quyền lợi khác của người lao động theo thoả ước lao động tập thể và hợp đồng lao động đã ký kết được ưu tiên thanh toán.

Như vậy, sau khi chấm dứt hợp đồng lao động bạn có quyền nhận lại sổ Bảo hiểm xã hội trong thời hạn 07 ngày (tối đa có thể kéo dài 30 ngày).

Còn đối với yêu cầu có được nhận trợ cấp xã hội không? Câu trả lời là không, bởi lẽ, trợ cấp xã hội bạn chỉ được nhận khi trường hợp của bạn thuộc các chế độ được nhận bảo hiểm xã hội: Ốm đau; Thai sản; Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; Hưu trí;Tử tuất. Trường hợp của bạn là gia đình gặp khó khăn, bạn cũng không nói rõ khó khăn đó là gì, chính vì vậy không thể xác định rõ được liệu bạn có được nhận trợ cấp xã hội không. Tuy nhiên, bạn vẫn có thể nhận được trợ cấp xã hội khi mà bạn thuộc một trong các trường hợp trên, thời hạn 1 năm bạn đã đóng bảo hiểm xã hội vẫn được tính vào thời gian đã nộp bảo hiểm xã hội, nó sẽ là cơ sở để bạn nhận được trợ cấp xã hội sau này.

Trên đây là tư vấn của công ty Luật Việt Phong về Vi phạm về thời hạn báo trước khi chấm dứt hợp đồng lao động. Chúng tôi hi vọng rằng quý khách có thể vận dụng các kiến thức kể trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống. Nếu có vấn đề pháp lý nào khác cần tư vấn quý khách vui lòng gọi điện tới tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 của công ty Luật Việt Phong để gặp luật sư tư vấn và chuyên viên pháp lý.

 

Bài viết được thực hiện bởi: Luật sư. Nguyễn Văn Đại

Để được giải đáp thắc mắc về: Vi phạm về thời hạn báo trước khi chấm dứt hợp đồng lao động
Vui lòng gọi Tổng đài luật sư tư vấn pháp luật 24/7: 1900 6589

Để gửi Email tư vấn pháp luật, Báo giá dịch vụ pháp lý hoặc đặt Luật sư tư vấn pháp luật trực tiếp.
Vui lòng click tại đây

CÔNG TY LUẬT TNHH VIỆT PHONG

 Hà Nội – Biệt thự 2.11 đường Nguyễn Xuân Khoát, KĐT Ngoại Giao Đoàn, Q. Bắc Từ Liêm
– Số 82 Nguyễn Tuân, Phường Thanh Xuân Trung, Quận Thanh Xuân

 Bắc Giang – 65-67 khu Minh Khai, Thị trấn Chũ, huyện Lục Ngạn

Vui lòng đánh giá bài viết

Nếu có vướng mắc bạn vui lòng liên hệ với Luật sư 1900 633 283

hoặc Bạn có thể click vào các ô dưới đây để gửi Email cho chúng tôi, Luật Việt Phong luôn sẵn sàng để hỗ trợ bạn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chủ đề