Giật dây chuyền vàng giả của người khác có bị coi là phạm tội hay không?

Tóm tắt câu hỏi:

Giật dây chuyền vàng giả của người khác có bị coi là phạm tội hay không?

Thưa luật sư, luật sư cho tôi hỏi: Cách đây vài hôm, đi trên đường thấy có một người phụ nữ đeo dây chuyền vàng, có giá trị lớn, thấy có vẻ dễ giật được và do nảy sinh lòng tham, tôi đã giật chiếc dây chuyền đó từ người này. Sau đó bỏ chạy, cũng không ai đuổi theo tôi kịp để lấy lại tài sản. Tôi đã đem cái vòng đó đi bán, rồi mới biết vòng đó là giả, không phải vàng thật, và cũng không đáng giá là bao. Vậy luật sư cho tôi hỏi,vậy hành vi của tôi có bị phạm tội hay không? Mong sớm nhận được câu trả lời của luật sư. Tôi xin cảm ơn!

Người gửi: Dấu tên

Giật dây chuyền vàng giả của người khác có bị coi là phạm tội hay không?

( Ảnh minh họa:Internet)
Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại gọi 1900 6589

 

Luật sư tư vấn:

Xin chào bạn! Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình tới Luật Việt Phong. Về câu hỏi của bạn, công ty Luật Việt Phong xin tư vấn và hướng dẫn bạn như sau:

1/ Căn cứ pháp lý

– Bộ Luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009

2/ Giật dây chuyền vàng giả của người khác có bị coi là phạm tội hay không?

Căn cứ theo Điều 136 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định về tội cướp giật tài sản như sau:

“1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Tái phạm nguy hiểm;

d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm;

đ) Hành hung để tẩu thoát;

e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%;

g) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

h) Gây hậu quả nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;

b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người;

b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

c) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng.

Dấu hiệu để nhận biết người nào phạm tội này:

Về khách thể: các quan hệ về tài sản và quan hệ nhân thân mà pháp luật bảo vệ.

Về mặt khách quan: Người thực hiện hành vi cướp giật tài sản không dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, hoặc dùng hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được mà lợi dụng sơ hở của người quản lý tài sản hoặc có thể tự mình tạo ra những sơ hở để thực hiện hành vi công khai chiếm đoạt tài sản đang rồi nhanh chóng tẩu thoát nhằm tránh sự đuổi bắt của người quản lý tài sản. Đặc trưng của tội phạm này là công khai chiếm đoạt tài sản (không lén lút, để phân biệt với tội trộm tài sản), không dùng bạo lực (phân biệt với tội cướp tài sản), không dùng thủ đoạn uy hiếp tinh thần (cưỡng đoạt tài sản). 

Về mặt chủ quan: Là lỗi cố ý trực tiếp. Mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này. Mục đích này chỉ có thể hình thành trước khi hành vi cướp giật diễn ra.

Về chủ thể: bất kỳ ai có năng lực trách nhiệm hình sự theo luật định. Căn cứ theo Điều 12, Điều 13 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định như sau:

Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự

1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.

2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Điều 13. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự

1. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự; đối với người này, phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.

2. Người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự, nhưng đã lâm vào tình trạng quy định tại khoản 1 Điều này trước khi bị kết án, thì cũng được áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự.

Trong đó, khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định: “Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.

Như vậy, theo như thông tin bạn cung cấp thì bạn đã có hành vi giật chiếc dây chuyền từ một người phụ nữ đang đi trên đường sau đó bỏ chạy. Hành vi giật dây chuyền của bạn đã xâm phạm đến quan hệ tài sản của người khác – quan hệ này được pháp luật bảo vệ. Lúc này, bạn đã lợi dụng sơ hở của người phụ nữ hoặc có thể tự mình tạo ra những sơ hở để thực hiện hành vi công khai chiếm đoạt dây chuyền chị này đang đeo, rồi nhanh chóng tẩu thoát nhằm tránh sự đuổi bắt của chị này cũng như mọi người xung quanh. Hành vi giật dây chuyền của bạn được thực hiện một cách công khai, không lén lút, không dùng bạo lực, cũng như không dùng thủ đoạn uy hiếp tinh thần người khác để chiếm đoạt tài sản. Hành vi của bạn đã thỏa mãn về khách thể và về mặt khách quan của tội cướp giật tài sản.

Về mặt chủ quan thì hành vi của bạn được thực hiện một cách cố ý, trường hợp này là cố ý trực tiếp: Bạn nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra. Hậu quả trong trường hợp này là bạn mong muốn lấy được dây chuyền vàng đó, và người phụ nữ kia bị mất dây chuyền và có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của chị kia do bạn đã giật chiếc dây chuyền đang đeo trên cổ chị ấy.

Còn về dấu hiệu chủ thể, do thông tin bạn cung cấp không đầy đủ là bạn bao nhiêu tuổi, có bị mắc các bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Do đó, như phân tích ở trên, nếu bạn đủ năng lực trách nhiệm hình sự thì bạn đã đáp ứng được đủ dấu hiệu về chủ thể của tội cướp giật tài sản.

Mặc dù chiếc dây chuyền mà bạn giật là giả, không phải là vàng thật, không đáng giá là bao nhiêu, nhưng pháp luật không quy định tài sản chiếm đoạt là tài sản gì, có giá trị như thế nào, chỉ cần có đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm theo như phân tích ở trên thì hành vi của bạn cũng đã có thể cấu thành tội cướp giật tài sản.

Trên đây là tư vấn của công ty Luật Việt Phong về giật dây chuyền vàng giả của người khác có bị coi là phạm tội hay không? Chúng tôi hi vọng rằng quý khách có thể vận dụng các kiến thức kể trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống. Nếu có vấn đề pháp lý nào khác cần tư vấn quý khách vui lòng gọi điện tới tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 của công ty Luật Việt Phong để gặp luật sư tư vấn và chuyên viên pháp lý.

Bài viết được thực hiện bởi: Luật sư. Nguyễn Văn Đại

Để được giải đáp thắc mắc về: Giật dây chuyền vàng giả của người khác có bị coi là phạm tội hay không?
Vui lòng gọi Tổng đài luật sư tư vấn pháp luật 24/7: 1900 6589

Để gửi Email tư vấn pháp luật, Báo giá dịch vụ pháp lý hoặc đặt Luật sư tư vấn pháp luật trực tiếp.
Vui lòng click tại đây

CÔNG TY LUẬT TNHH VIỆT PHONG

 Hà Nội – Biệt thự 2.11 đường Nguyễn Xuân Khoát, KĐT Ngoại Giao Đoàn, Q. Bắc Từ Liêm
– Số 82 Nguyễn Tuân, Phường Thanh Xuân Trung, Quận Thanh Xuân

 Bắc Giang – 65-67 khu Minh Khai, Thị trấn Chũ, huyện Lục Ngạn

Vui lòng đánh giá bài viết

Nếu có vướng mắc bạn vui lòng liên hệ với Luật sư 1900 633 283

hoặc Bạn có thể click vào các ô dưới đây để gửi Email cho chúng tôi, Luật Việt Phong luôn sẵn sàng để hỗ trợ bạn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chủ đề