Giải quyết tranh chấp về thừa kế và bảo hiểm xã hội

Tôi có 1 tình huống thực tế mong được luật sư bên Việt Phong tư vấn giúp. 
Tôi xin chân thành cảm ơn!
1. Nội dung sự việc: Ông H và bà T là vợ chồng có 1 con gái chung tên N (hiện nay chưa đủ 18 tuổi), tháng 7/2017 ông H và bà T ly hôn, tài sản chung là 1 căn nhà trị giá 600 triệu đồng, 2 người tự thỏa thuận trước tòa là ai ở căn nhà thì trả lại cho người kia 300 triệu đồng, ông H lấy căn nhà và đã đưa cho bà T 300 triệu, bà T yêu cầu tòa được nuôi N và không cần ông H trợ cấp hàng tháng. Ông H bán căn nhà cũ và mua 1 căn nhà 3 tầng 40m2 và 1 mảnh đất cạnh nhà 70m2, tổng giá trị tài sản là 1 tỉ 500 triệu đồng, để mua căn nhà và mảnh đất ông H đã vay 2 chị gái là chị Y 100 triệu đồng ( vay miệng) và chị E 200 triệu đồng ( qua giao dịch chuyển khoản ngân hàng) và ông H thế chấp sổ đỏ căn nhà để vay ké qua công ty của cháu họ là G ở hà nội số tiền là 700 triệu đồng,có giấy tờ vay nợ đầy đủ, tháng 9/2018 ông H chết để lại căn nhà 3 tầng,mảnh đất 70m2,1 xe máy và nội thất bàn ghế trong nhà đầy đủ. Theo luật HNGĐ con gái ông H là N được thừa kế toàn bộ số tài sản ông H để lại nhưng N chưa đủ 18 tuổi nên đã ủy quyền cho mẹ là bà T quản lý & sử dụng toàn bộ số tài sản ông H để lại, bà T đã tự ý bán xe máy và nội thất bàn ghế trong nhà ông H để lai cho N và cầm số tiền tử tuất của ông H được hưởng là 140 triệu đồng.
2. Yêu cầu tư vấn:
– Làm thế nào để lấy lại số tiền bà Y, bà E và cháu G đã cho ông H vay từ trước khi ông H chết?
– Việc bà T tự ý bán xe máy, bán bàn ghế nội thất trong nhà ông H để lại cho con gái là N và cầm số tiền tử tuất ông H được hưởng theo luật Bảo Hiểm Xã Hội là 140 triệu đồng có trái pháp luật không?

Lan Ngọc

Căn cứ pháp lý

– Thông tư 46/2014/TT-NHNN hướng dẫn về dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành

17 wakc 5

Luật sư tư vấn

Xin chào bạn! Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình tới Luật Việt Phong đối với câu hỏi của bạn, công ty Luật Việt Phong xin tư vấn và hướng dẫn cho bạn như sau: từ những thông tin bạn chia sẻ, chúng tôi nhận thấy bạn đang gặp vướng mắc trong vấn đề pháp lý liên quan đến tranh chấp dân sự.

Dựa theo thông tin được cung cấp và căn cư theo pháp luật về dân sự áp dụng vào trường hợp này, việc ông H chết trong trường hợp đã làm phát sinh một số quan hệ pháp lý kéo theo như:

  • Quan hệ pháp luật về thừa kế
  • Giải quyết tranh chấp liên quan đến việc hưởng di sản thừa kế
  • Thực hiện nghĩa vụ trả nợ từ việc vay tài sản của ông H
  1. Trước hết, việc ông H chết không để lại di chúc cộng thêm thông tin ban đầu là ông H đã ly hôn vợ thì căn cứ theo pháp luật dân sự về thừa kế, các quyền và nghĩa vụ có liên quan đến tài sản của ông H trong trường hợp này sẽ được chia thừa kế theo pháp luật đã được quy định tại chương XXIII BLDS 2015. Theo đó, người con của ông H là N sẽ là đối tượng được hưởng toàn bộ các quyền và nghĩa vụ có liên quan do việc chấp nhận hưởng di sản của ông H. Di sản thừa kế sẽ bao gồm: căn nhà 3 tầng, 1 mảnh đất 70m2, 1 xe máy, nội thất bàn ghế trong nhà, tiền trợ cấp tử tuất một lần do tham gia chế độ bảo hiểm xã hội và thực hiện các nghĩa vụ tài sản khác do ông H đã xác lập trước khi chết.

Tuy nhiên, do N là người chưa thành niên cho nên việc xác lập các giao dịch dân sự, đặc biệt liên quan đến tài sản là bất động sản như nhà, đất…hay động sản phải đăng ký quyền sở hữu như xe máy…thì căn cứ theo quy định tại khoản 4 điều 21 BLDS 2015 việc xac lập giao dịch dân sự phải được sự đồng ý từ người đại diện theo pháp luật. Theo đó, trong trường hợp này bà T sẽ là người đại diện theo pháp luật của N ( căn cứ theo quy định tại điều 136 BLDS 2015 )

Như vậy, việc bà T thực hiện các giao dịch có liên quan đến tài sản được thừa kế của N sẽ được coi là hợp pháp nếu vì lợi ích của người được đại diện căn cứ theo theo khoản 2 điều 141 BLDS 2015:

Điều 141. Phạm vi đại diện
2. Trường hợp không xác định được cụ thể phạm vi đại diện theo quy định tại khoản 1 Điều này thì người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác…
Trong trường hợp nếu có căn cứ chứng minh về việc bà T thực hiện giao dịch dân sự không vì lợi ích của N hoặc vì lợi ích cá nhân thì người bị thiệt hại ( căn cứ theo khoản 6 điều 69 BLTTDS ) được quyền khởi kiện đến Tòa án nhân dân cấp huyện nơi có bất động sản giải quyết ( căn cứ theo điểm c khoản 1 điều 39 BLTTDS 2015 quy định ) để được xét xử và được hoàn trả lại tài sản do việc chiếm hữu, định đoạt trái pháp luật từ bà T.

2. Tiếp theo liên quan đến thắc mắc về việc hưởng tiền trợ cấp tử tuất một lần: căn cứ theo pháp luật về bảo hiểm xã hội, đối vói những đối tượng tham gia chế độ bảo hiểm xã hội đã đủ điều kiện về thời gian tham gia bảo hiểm xã hội được quy định tại khoản 1 điều 67 Luật bảo hiểm xã hội thì thân nhân được hưởng trợ cấp một lần. 

Theo đó, “thân nhân” được hiểu là những người có quan hệ huyết thống về hôn nhân, gia đình hoặc giữa vợ – chồng hay đối tượng mà người tham gia BHXH có trách nhiệm nuôi dưỡng ( căn cứ theo khoản 6 điều 3 Luật bảo hiểm xã hội quy định ) mới có quyền hưởng trợ cấp tử tuất 1 lần từ việc người tham gia BHXH chết.

Như vậy, việc bà T đã ly hôn với chồng sẽ không thuộc đối tượng được hưởng tiền trợ cấp tử tuất. Từ phân tích trên, đối với hành vi chiếm đoạt tiền tử tuất trái pháp luật ( hoặc không vì lợi ích của người được đại diện ) sẽ bị xử lý căn cứ theo điều 122 Luật bảo hiểm xã hội:

Điều 122. Xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội
1. Cơ quan, tổ chức có hành vi vi phạm quy định của Luật này, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
2. Cá nhân có hành vi vi phạm quy định của Luật này, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Bổ sung, hướng dẫn cho điều 122, việc chiếm đoạt số tiền trợ cấp từ BHXH là 140 triệu vì mục đích cá nhân thì căn cứ theo điểm c khoản 2 điều 214 BLHS 2015, bà T sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự đồng thời phải có trách nhiệm hoàn trả lại số tiền trợ cấp từ việc chiếm đoạt trái pháp luật.

3. Cuối cùng liên quan đến quyền đòi lại tài sản của các bên đã cho ông H vay. 

Theo thông tin ban đầu là ông H vay tiền từ bà Y, bà E và cháu G, nếu có chứng cứ chứng minh về việc vay tài sản của ông H thì các cá nhân cho vay tiền được quyền ưu tiên thực hiện việc đòi lại tài sản từ cá nhân được quyền thừa kế lại tài sản căn cứ theo điều 26 BLTTDS về giải quyết tranh chấp dân sự.

Theo đó, các chứng cứ được xem là hợp pháp, có giá trị sử dụng tại Toà án phải tuân thủ điều kiện theo quy định tại điều 94 BLTTDS:

Điều 94. Nguồn chứng cứ
Chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây:
1. Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử.
2. Vật chứng.
3. Lời khai của đương sự.
4. Lời khai của người làm chứng.
5. Kết luận giám định.
6. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ.
7. Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản.
8. Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập.
9. Văn bản công chứng, chứng thực.
10. Các nguồn khác mà pháp luật có quy định.
Từ căn cứ trên và theo thông tin ban đầu là ông H và bà Y có xác lập hợp đồng vay tiền ( hợp đồng miệng ), căn cứ theo pháp luật về xác lập giao dịch dân sự, pháp luật cho phép các bên trong giao dịch được quyền tiến hành bằng hợp đồng miệng tuy nhiên khi có tranh chấp xảy ra thì chứng cứ đủ sức thuyết phục tại Toà về việc các bên đã xác lập việc vay tài sản đó là có ít nhất 2 người làm chứng.

Tiếp theo là chứng cứ về việc xác lập giao dịch giữa bà E và ông H thông qua giao dịch chuyển khoản ngân hàng. Căn cứ theo pháp luật về thanh toán không dùng tiền mặt, việc các bên tiến hành việc chuyển tiền thông qua tổ chức trung gian là ngân hàng được kiểm soát thực hiện thông qua chứng từ thanh toán ( Thông tư 46/2014/TT-NHNN ). Như vậy, thông qua các chứng từ tài liệu được xác lập theo đúng trình tự, thủ tục, quy chế hoạt động nội bộ từ bên Ngân hàng và được giao cho các bên khi giao dịch được thực hiện thì được coi là chứng cứ đủ sức thuyết phục khi có tranh chấp tại Toà.

Trên đây là tư vấn của công ty Luật Việt Phong về xử lý, giải quyết các tranh chấp dân sự. Chúng tôi hi vọng rằng bạn có thể vận dụng các kiến thức kể trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống. Nếu có vấn đề pháp lý nào khác cần tư vấn bạn vui lòng gọi điện tới tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 của Công ty Luật Việt Phong để gặp luật sư tư vấn và chuyên viên pháp lý.

Chuyên viên: Nguyễn Hòa

 

Vui lòng đánh giá bài viết

Nếu có vướng mắc bạn vui lòng liên hệ với Luật sư 1900 633 283

hoặc Bạn có thể click vào các ô dưới đây để gửi Email cho chúng tôi, Luật Việt Phong luôn sẵn sàng để hỗ trợ bạn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chủ đề