Trách nhiệm bồi thường thiệt hai khi gây ra tai nạn giao thông

Tóm tắt câu hỏi

Ngày 29/9 em chở bạn gái và e trai của bạn gái (đang học lớp 2) lưu thông trên đường và bị hai bạn nữ đi xe máy từ đằng sau đâm vào. Vụ tai nạn khiến 1 chị ngồi đằng sau bị chấn thương vùng đầu sau đó 2 chị bảo lỗi do em gây ra (cả hai đều không đội mũ bảo hiểm). Sau đó người nhà của 2 chị đâm vào em ra giữ chiếc xe máy của em trong khi e đang đưa chị bị chấn thương đi bệnh viện và bác sĩ kết luận là không bị làm sao cả. Sau khi ra viện em cũng đến gia đình nạn nhân để hỏi thăm và cũng chi trả tiền thuốc men, viện phí nhưng họ bắt em phải bồi thường 1tr2 và bắt e đưa thẻ sinh viên và CMT thì mới cho ra về. Luật sư cho em hỏi em có phải chịu trách nhiệm không và em có được trả lại thẻ học viên và CMT không?
Người gửi: Nhật Minh
tai nan giao thong 17100514500135568

Luật sư tư vấn

Xin chào bạn! Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình tới công ty Luật Việt Phong. Về câu hỏi của bạn, công ty Luật Việt Phong xin tư vấn và hướng dẫn bạn như sau:

1/ Cơ sở pháp lí

– Bộ luật Dân sự 2015;
– Luật Giao thông đường bộ 2008;
– Bộ luật Hình sự 1999;
– Nghị Định 46/2016/ NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt.

2/ Trách nhiệm Bồi thường thiệt hại khi gây tai nạn giao thông

Thứ nhất về trách nhiệm Bồi thường thiệt hại 
Theo như thông tin mà mà bạn đã cung cấp cho chúng tôi thì bạn chở 2 người ngồi trên xe đó là bạn gái bạn và em trai bạn đang học lớp 2 (tức là 8 tuổi) theo quy định tại Khoản 1 Điều 30 Luật Giao thông đường bộ năm 2008 có quy định như sau:
 “Người điều khiển xe mô tô hai bánh, xe gắn máy chỉ được chở một người, trừ những trường hợp sau thì được chở tối đa hai người:
a) Chở người bệnh đi cấp cứu;
b) Áp giải người có hành vi vi phạm pháp luật;
c) Trẻ em dưới 14 tuổi.”
Như vậy, hành vi chở 3 người của bạn chưa được coi là vi phạm pháp luật.
Hơn nữa, tại Điều 202 Bộ Luật Hình sự 1999 quy định về trách nhiệm hình sự khi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ như sau:
“1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:
a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định; 
b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng;
c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn; 
d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;
đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
4. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”
Cũng tại Khoản 2 Điều 584 của Bộ luật Dân sự 2015 có quy định về căn cứ phát sinh trách nhiệm Bồi thường thiệt hại như sau: 
“1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.”
Về nguyên tắc bồi thường thiệt hại thì được quy định tại Điều 585 Bộ luật Dân sự 2015 như sau: 
“1.Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2.Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.
3.Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.
4.Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.
5.Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình.”
Như vậy, theo thông tin bạn cung cấp thì hai người phụ nữ đi xe máy sau bạn tông thẳng vào xe của bạn nên lỗi trong vụ tai nạn này không thuộc về bên bạn mà thuộc về bên 2 người phụ nữ kia. Vì vậy trách nhiệm Bồi thường thiệt hại sẽ thuộc về phía hai chị đi xe máy tông vào bạn, trong trường hợp này bạn cũng có thể yêu cầu bên kia Bồi thường thiệt hại nếu sức khỏe hoặc tài sản của bạn bị xâm phạm.
Thứ hai về hành vi hai chị kia chiếm giữ chiếc xe máy, thẻ Sinh viên và CMT của bạn.
Căn cứ quy định tại Điều 38 Luật Giao thông đường bộ 2008, khi xảy ra tai nạn giao thông, những người có mặt tại nơi xảy ra vụ tai nạn có trách nhiệm báo tin cho cơ quan công an, y tế hoặc ủy ban nhân dân nơi gần nhất để các cơ quan này kịp thời có mặt tại hiện trường để điều tra vụ tai nạn. Khi đó, xe của bạn cũng như xe của người bị tai nạn đều phải được tạm giữ để phục vụ công tác điều tra và thẩm quyền tạm giữ xe để điều tra thuộc về đơn vị cảnh sát giao thông có mặt tại hiện trường sau khi tiếp nhận tin báo, sau đó sẽ chuyển sang cơ quan công an điều tra nếu vụ tai nạn có dấu hiệu tội phạm. Việc tạm giữ phương tiện gây ra tai nạn phải được thực hiện theo đúng trình tự thủ tục luật định như phải có biên bản, quyết định tạm giữ… 
Vấn đề phát sinh là do sau khi xảy ra tai nạn bạn và cả người kia không thực hiện đúng theo quy định của luật giao thông đường bộ nói trên mà lại tự mình giải quyết dẫn đến việc người bị tai nạn giữ xe của bạn. Tuy nhiên dù với mục đích gì, thậm chí là giữ xe để bảo đảm bạn phải bồi thường thiệt hại cho họ thì hành vi giữ xe này cũng là trái pháp luật. Do đó nếu người này không chịu trả lại xe thì bạn có thể làm đơn tố cáo gửi đến cơ quan công an nơi người này cư trú để cơ quan này can thiệp giải quyết.
Trên đây là tư vấn của công ty Luật Việt Phong về trách nhiệm bồi thường thiệt hai khi gây ra tai nạn giao thông. Chúng tôi hi vọng rằng quý khách có thể vận dụng các kiến thức kể trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống. Nếu có vấn đề pháp lý nào khác cần tư vấn quý khách vui lòng gọi điện tới tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 của công ty Luật Việt Phong để gặp luật sư tư vấn và chuyên viên pháp lý.
Chuyên viên: Nguyễn Thị Quỳnh

Bài viết được thực hiện bởi: Luật sư. Nguyễn Văn Đại (Công ty Luật TNHH Việt Phong)

Để được giải đáp thắc mắc về: Trách nhiệm bồi thường thiệt hai khi gây ra tai nạn giao thông
Vui lòng gọi Tổng đài luật sư tư vấn pháp luật 24/7: 1900 6589

Để gửi Email tư vấn pháp luật, Báo giá dịch vụ pháp lý hoặc đặt Luật sư tư vấn pháp luật trực tiếp.
Vui lòng click tại đây

CÔNG TY LUẬT TNHH VIỆT PHONG

 Hà Nội – Biệt thự 2.11 đường Nguyễn Xuân Khoát, KĐT Ngoại Giao Đoàn, Q. Bắc Từ Liêm
– Số 82 Nguyễn Tuân, Phường Thanh Xuân Trung, Quận Thanh Xuân

 Bắc Giang – 65-67 khu Minh Khai, Thị trấn Chũ, huyện Lục Ngạn

 Hưng Yên – Số 73 đường Nguyễn Văn Linh, Phường Bần Yên Nhân, Thị xã Mỹ Hào

Vui lòng đánh giá bài viết

Nếu có vướng mắc bạn vui lòng liên hệ với Luật sư 1900 633 283

hoặc Bạn có thể click vào các ô dưới đây để gửi Email cho chúng tôi, Luật Việt Phong luôn sẵn sàng để hỗ trợ bạn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chủ đề