Đòi lại được tiền không khi xác lập giao dịch giả tạo?

Tóm tắt tình huống

Hồi tháng 5 năm 2016 em có đặt cọc số tiền 150 triệu đồng cho một bà cô cùng huyện để xin việc. Em đã làm hợp đồng nhưng trong hợp đồng em ghi là đặt cọc thuê nhà chứ không ghi là để xin việc và thời hạn hợp đồng là đến hết ngày 30 tháng 10 năm 2016 nếu không xin được việc (ghi trong hợp đồng là không bàn giao được nhà) thì sẽ nhận lại 150 triệu đã đặt cọc trên. Tuy nhiên cho đến hiện tại thì em chưa có việc và bà ta cũng chưa trả lại số tiền trên cho em. Em xin nhờ anh chị tư vấn giúp em làm cách nào để đòi lại số tiền trên theo đúng pháp luật. Em có thể kiện bà ta ra Tòa với hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác không ạ?
Người gửi: Nguyễn Khánh Huyền
15 1

Luật sư tư vấn

Xin chào bạn! Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình tới Luật Việt Phong. Về câu hỏi của bạn, công ty Luật Việt Phong xin tư vấn và hướng dẫn bạn như sau:

1. Căn cứ pháp lý

– Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung 2009;
– Bộ luật dân sự 2015.

2. Đòi lại được tiền không khi xác lập giao dịch giả tạo?

Nhận thấy, giao dịch giữa bạn và bà cô cùng huyện là giao dịch giả tạo theo Điều 124 Bộ luật dân sự 2015: “Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan”.
Thực chất, giao dịch giữa các bạn là việc bạn đặt cọc một khoản tiền và người cô đó có trách nhiệm tìm việc cho bạn. Tuy nhiên, các bạn lại xác định một giao dịch giả tạo là giao dịch thuê nhà nhằm che giấu giao dịch tìm việc đó. Do vậy, theo Điều 124 Bộ luật này thì giao dịch thuê nhà sẽ vô hiệu, giao dịch tìm việc vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu.
Một giao dịch bị coi là vô hiệu khi không có một trong các điều kiện sau quy định tại Điều 117 Bộ luật này:
“Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định”
Như vậy, nếu giao dịch xin việc giữa bên bạn và bà cô kia nếu thoả mãn điều kiện của Điều 117 thì vẫn có hiệu lực.
Khi đó, khoản tiền đặt cọc 150 triệu đồng trên được xác định là tiền đặt cọc thực hiện nghĩa vụ tìm việc trong hợp đồng: “Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng” (Điều 328 Bộ luật dân sự). Bà cô kia không tìm được việc cho bạn khi hết hạn hợp đồng thì được coi là từ chối thực hiện hợp đồng, do đó, bà ấy phải “trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác” (Khoản 2 Điều 328).
Nếu bà đó vẫn không thanh toán những khoản này cho bạn thì bạn có thể khởi kiện ra Toà án nhân dân cấp huyện nơi người đó cư trú để đòi lại tiền của mình.
Ngoài ra như bạn đã đề cập, bạn muốn kiện người cô này ra Toà về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”.
Người phạm tội này phải có hành vi gian dối, tức: đưa ra những thông tin không đúng sự thật để đánh lừa người khác, hành vi này có thể được thực hiện thông qua lời nói, chữ viết hoặc hành động: dùng lời nói dối, giả danh cán bộ để thông qua việc giao kết hợp đồng.
Chiếm đoạt tài sản là sự chuyển dịch bất hợp pháp tài sản từ chỗ chủ sở hữu hoặc người có quyền với tài sản tới chỗ người thực hiện hành vi gian dối.
Trong trường hợp của bạn, người cô kia không có thủ đoạn lừa dối bạn để chiếm đoạt số tiền 150 triệu của bạn mà chỉ là không thực hiện nghĩa vụ đã có biện pháp bảo đảm đối với bạn, do đó bạn không thể kiện người này về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Trên đây là tư vấn của công ty Luật Việt Phong về Xử lý khi không được trả lại tiền cọc từ giao dịch dân sự giả tạo. Chúng tôi hi vọng rằng quý khách có thể vận dụng các kiến thức kể trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống. Nếu có vấn đề pháp lý nào khác cần tư vấn quý khách vui lòng gọi điện tới tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 của công ty Luật Việt Phong để gặp luật sư tư vấn và chuyên viên pháp lý.
Chuyên viên: Phạm Thị Thuý Hằng

Bài viết được thực hiện bởi: Luật sư. Nguyễn Văn Đại (Công ty Luật TNHH Việt Phong)

Để được giải đáp thắc mắc về: Đòi lại được tiền không khi xác lập giao dịch giả tạo?
Vui lòng gọi Tổng đài luật sư tư vấn pháp luật 24/7: 1900 6589

Để gửi Email tư vấn pháp luật, Báo giá dịch vụ pháp lý hoặc đặt Luật sư tư vấn pháp luật trực tiếp.
Vui lòng click tại đây

CÔNG TY LUẬT TNHH VIỆT PHONG

 Hà Nội – Biệt thự 2.11 đường Nguyễn Xuân Khoát, KĐT Ngoại Giao Đoàn, Q. Bắc Từ Liêm
– Số 82 Nguyễn Tuân, Phường Thanh Xuân Trung, Quận Thanh Xuân

 Bắc Giang – 65-67 khu Minh Khai, Thị trấn Chũ, huyện Lục Ngạn

Vui lòng đánh giá bài viết

Nếu có vướng mắc bạn vui lòng liên hệ với Luật sư 1900 633 283

hoặc Bạn có thể click vào các ô dưới đây để gửi Email cho chúng tôi, Luật Việt Phong luôn sẵn sàng để hỗ trợ bạn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chủ đề