Đơn phương ly hôn liệu chồng có bị truy cứu trách nhiệm hình sự?

Tóm tắt câu hỏi:

Chào luật sư. Tôi muốn hỏi hai vợ chồng chị gái tôi kết hôn đã hai năm nay. Chị tôi muốn ly hôn nhưng chồng chị không đồng ý. Vậy chị tôi muốn làm thủ tục ly hôn đơn phương. Vấn đề là anh rể tôi 49 tuổi còn chị tôi 27 tuổi tuy kết hôn hai năm nhưng họ sống với nhau 14 năm. Vậy cho tôi hỏi khi ra tòa anh rể tôi có vi phạm pháp luật không khi chuyện đã qua lâu rồi. Rất cảm ơn ý kiến tư vấn của Qúy Luật sư công ty Luật Việt Phong!

Người gửi: Vũ Minh Thơm (Hưng Yên)

Đơn phương ly hôn liệu chồng có bị truy cứu trách nhiệm hình sự?

( Ảnh minh họa:Internet)
Tư vấn luật: 1900 6589

 

Luật sư tư vấn:

Xin chào bạn! cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình tới luật Việt Phong. Về câu hỏi của bạn, công ty luật Việt Phong xin tư vấn và hướng dẫn cho bạn như sau:

1/ Căn cứ pháp lý.

– Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009);

– Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012;

– Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã;

2/ Đơn phương ly hôn liệu chồng có bị truy cứu trách nhiệm hình sự?

Theo như thông tin anh cung cấp, chị gái anh đã sống với chồng 14 năm, trong đó 12 năm là sống chung như vợ chồng. Theo đó, thời gian chị gái anh bắt đầu chung sống với chồng thì chị anh mới có 13 tuổi. Mặt khác, trong thời gian đó, có thực hiện hành vi giao cấu:

Trong trường hợp, chị gái anh lúc bắt đầu chung sống với chồng chưa đủ 13 tuổi thì chồng của chị gái anh đã phạm tội hiếp dâm trẻ em theo quy định tại khoản 4, Điều 112, Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) “Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội hiếp dâm trẻ em và người phạm tội bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình”. Nếu thời gian vợ chồng chị gái anh bắt đầu chung sống như vợ chồng từ khi chị gái anh đủ 13 tuổi thì chồng của chị anh sẽ có thể phạm tội hiếp dâm theo khoản 3, Điều 112 Bộ luật này, cụ thể:

“Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

a)  Có tổ chức;

b) Nhiều người hiếp một người;

c) Phạm tội nhiều lần;

d) Đối  với nhiều người;

đ) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật  từ 61%trở lên;

e) Biết mình bị nhiễm HIVmà vẫn phạm tội;

g) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát”.

Hoặc chồng của chị anh có thể phạm tội Tội giao cấu với trẻ em  theo Điều 115,  Bộ luật hình sự năm 2009:

“2.  Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

a) Phạm tội nhiều lần;

b) Đối với nhiều người;

c) Có tính chất loạn luân;

d) Làm nạn nhân có thai;

đ) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%”.

Mặt khác, căn cứ theo Điều 23, Bộ luật này quy định về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự có quy định như sau :

“1. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

2. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:

a) Năm năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng;

b) Mười năm đối với các tội phạm nghiêm trọng;

c) Mười lăm năm đối với các tội phạm rất nghiêm trọng;

d)  Hai mươi năm đối với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

3. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện. Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này người phạm tội lại phạm tội mới mà Bộ luật quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên một năm tù, thì thời gian đã qua không được tính và thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày phạm tội mới.

Nếu trong thời hạn nói trên, người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có lệnh truy nã, thì thời gian trốn tránh không được tính và thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra tự thú hoặc bị bắt giữ”.

Như vậy, đối với tội hiếp dâm thì chồng chị anh vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi đã thực hiện vì thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự vẫn còn.

Ngoài ra, chồng của chị gái anh còn có thể bị truy cứu về hành vi tảo hôn:

“Tảo hôn là việc nam, nữ kết hôn trước độ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật”. Điểm a, khoản 1, điều 8, Luật hôn nhân gia đình năm 2014 về điều kiện kết hôn quy định nam, nữ kết hôn với nhau phải đảm bảo: “Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên”. Như vậy, trong trường hợp nam, nữ kết hôn khi nam chưa đủ 20 tuổi, nữ chưa đủ 18 tuổi thì có thể bị xử lý theo quy định của pháp luật về việc tảo hôn. Cụ thể:

Căn cứ theo quy định tại Điều 47, Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã quy định hành vi tảo hôn, tổ chức tảo hôn có thể bị xử phạt vi phạm hành chính như sau:

Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi cố ý duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đủ tuổi kết hôn mặc dù đã có quyết định của Tòa án nhân dân buộc chấm dứt quan hệ đó.”

Đồng thời, người nào đã bị xử phạt hành chính về hành vi tảo hôn, tổ chức tảo hôn mà còn vi phạm thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tội tảo hôn theo quy định tại Điểm b, Điều 148, Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Cụ thể:

“Người nào có một trong các hành vi sau đây, đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm:

b) Cố ý duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đến tuổi kết hôn mặc dù đã có quyết định của Toà án buộc chấm dứt quan hệ đó”.

Mà theo quy định tại Điều 6, Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định về thời hiệu xử lý vi phạm hành chính như sau:

Như vậy, chồng của chị anh không bị xử lý vi phạm hành chính nữa do đã hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính. Mặt khác, như đã trình bày ở trên, thì nếu chồng của chị anh có phạm tội tảo hôn cũng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự nữa vì đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.

Trên đây là tư vấn của công ty Luật Việt Phong về Đơn phương ly hôn liệu chồng có bị truy cứu trách nhiệm hình sự? Chúng tôi hi vọng rằng quý khách có thể vận dụng các kiến thức kể trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống. Nếu có vấn đề pháp lý nào khác cần tư vấn quý khách vui lòng gọi điện tới tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 của công ty Luật Việt Phong để gặp luật sư tư vấn và chuyên viên pháp lý.

Bài viết được thực hiện bởi: Luật sư. Nguyễn Văn Đại

Để được giải đáp thắc mắc về: Đơn phương ly hôn liệu chồng có bị truy cứu trách nhiệm hình sự?
Vui lòng gọi Tổng đài luật sư tư vấn pháp luật 24/7: 1900 6589

Để gửi Email tư vấn pháp luật, Báo giá dịch vụ pháp lý hoặc đặt Luật sư tư vấn pháp luật trực tiếp.
Vui lòng click tại đây

CÔNG TY LUẬT TNHH VIỆT PHONG

 Hà Nội – Biệt thự 2.11 đường Nguyễn Xuân Khoát, KĐT Ngoại Giao Đoàn, Q. Bắc Từ Liêm
– Số 82 Nguyễn Tuân, Phường Thanh Xuân Trung, Quận Thanh Xuân

 Bắc Giang – 65-67 khu Minh Khai, Thị trấn Chũ, huyện Lục Ngạn

Vui lòng đánh giá bài viết

Nếu có vướng mắc bạn vui lòng liên hệ với Luật sư 1900 633 283

hoặc Bạn có thể click vào các ô dưới đây để gửi Email cho chúng tôi, Luật Việt Phong luôn sẵn sàng để hỗ trợ bạn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chủ đề