Tố giác người khác với cơ quan điều tra nhưng nếu người kia trong quá trình điều tra không có tội có phải vu khống?

Tóm tắt câu hỏi:

Thưa luật sư, cháu có một thắc mắc như sau: Vừa rồi cháu tố giác người khác với cơ quan điều tra, nếu người kia trong quá trình điều tra không có tội vậy hành vi của cháu có phải vu khống không ạ?
Cảm ơn luật sư!
Người gửi: Văn Trí
vu khong 1

Luật sư tư vấn

Xin chào bạn! Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình tới Luật Việt Phong. Về câu hỏi của bạn, công ty Luật Việt Phong xin tư vấn và hướng dẫn bạn như sau:

1/ Căn cứ pháp lý

– Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi, bổ sung 2009.
– Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT- BCA- BQP- BTC- BNN&PTNT-VKSNDTC hướng dẫn thi hành quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.

2/ Tố giác người khác với cơ quan điều tra nhưng nếu người kia trong quá trình điều tra không có tội có phải vu khống?

Hành vi tố giác tội phạm được giải thích tại Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT- BCA- BQP- BTC- BNN&PTNT- VKSNDTC ngày 02/8/2013 hướng dẫn thi hành quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thì:
“Tố giác về tội phạm là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm do cá nhân có danh tính, địa chỉ rõ ràng cung cấp cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết”.
Đối tượng của tố giác về tội phạm chỉ có hành vi vi phạm pháp luật có thể cấu thành tội phạm. Do đó, khi bạn tố giác người khác phạm tội, bạn phải chỉ ra được biểu hiện bên ngoài của hành vi phạm tội là thỏa mãn những dấu hiệu của một hay nhiều tội phạm quy định trong Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi, bổ sung 2009.
Trong đơn tố giác tội phạm, bạn cần làm rõ yếu tố “Có dấu hiệu tội phạm” theo quy định của Bộ luật hình sự đối với tội phạm tương ứng thì sử dụng đơn tố giác tội phạm sẽ chính xác hơn. Như vậy, nếu việc bạn tố giác tội phạm mà có căn cứ xác thực thì cho dù quá trình điều tra có kết luận người đó không phạm tội cũng không làm bạn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vu khống.
Nếu hành vi tố cáo của bạn không có căn cứ mà đó là bịa đặt, loan truyền thông tin sai lệch: Theo quy định tại Điều 122 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi -2009 và các văn bản liên quan, vu khống là hành vi bịa đặt, loan truyền những điều mà người loan truyền biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.
Tội vu khống được biểu hiện ở những hành vi như bịa đặt chuyện xấu xa cho người khác về vi phạm kỷ luật, vi phạm đạo đức, pháp luật… Bịa đặt là hư cấu những chuyện không có thật; loan truyền những chuyện, những điều biết rõ là bịa đặt, vu oan cho người khác; bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan nhà nước, cho rằng họ đã phạm một tội nào đó. Hành vi vu khống có thể thực hiện thông qua các hình thức như truyền miệng, viết bài, gửi đơn, thư tố giác, thư nặc danh… Trường hợp người đưa tin bịa đặt nhưng lầm tưởng những điều họ loan tin là có thật thì không phạm tội. Hậu quả xảy ra là nạn nhân bị mất uy tín, danh dự hoặc bị thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Tội vu khống được coi là hoàn thành từ khi người phạm tội thực hiện hành vi loan truyền những điều bịa đặt cho người khác biết hoặc tố cáo với cơ quan nhà nước về việc người khác phạm tội.
Theo quy định tại Điều 122 Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi, bổ sung 2009 thì:
1. Người có hành vi bịa đặt, loan truyền những điều này sẽ bị xử phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
2. Người phạm tội trong các trường hợp sau sẽ bị phạt tù từ một năm đến bảy năm.
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Đối với nhiều người;
d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình;
đ) Đối với người thi hành công vụ;
e) Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
3. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
Như vậy, nếu việc bạn tố giác người phạm tội là có căn cứ xác thực hoặc trường hợp bạn tố giác người khác nhưng lầm tưởng những bạn tố giác là có thật thì không phạm tội.
Trên đây là tư vấn của Công ty Luật Việt Phong về vấn đề Tố giác người khác với cơ quan điều tra nhưng nếu người kia trong quá trình điều tra không có tội có phải vu khống không? Chúng tôi hi vọng rằng quý khách có thể vận dụng các kiến thức kể trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống. Nếu có vấn đề pháp lý nào khác cần tư vấn quý khách vui lòng gọi điện tới tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 của Công ty Luật Việt Phong để gặp luật sư tư vấn và chuyên viên pháp lý.
Chuyên viên: Nguyễn Thanh Bình

Bài viết được thực hiện bởi: Luật sư. Nguyễn Văn Đại (Công ty Luật TNHH Việt Phong)

Để được giải đáp thắc mắc về: Tố giác người khác với cơ quan điều tra nhưng nếu người kia trong quá trình điều tra không có tội có phải vu khống?
Vui lòng gọi Tổng đài luật sư tư vấn pháp luật 24/7: 1900 6589

Để gửi Email tư vấn pháp luật, Báo giá dịch vụ pháp lý hoặc đặt Luật sư tư vấn pháp luật trực tiếp.
Vui lòng click tại đây

CÔNG TY LUẬT TNHH VIỆT PHONG

 Hà Nội – Biệt thự 2.11 đường Nguyễn Xuân Khoát, KĐT Ngoại Giao Đoàn, Q. Bắc Từ Liêm
– Số 82 Nguyễn Tuân, Phường Thanh Xuân Trung, Quận Thanh Xuân

 Bắc Giang – 65-67 khu Minh Khai, Thị trấn Chũ, huyện Lục Ngạn

 Hưng Yên – Số 73 đường Nguyễn Văn Linh, Phường Bần Yên Nhân, Thị xã Mỹ Hào

Vui lòng đánh giá bài viết

Nếu có vướng mắc bạn vui lòng liên hệ với Luật sư 1900 633 283

hoặc Bạn có thể click vào các ô dưới đây để gửi Email cho chúng tôi, Luật Việt Phong luôn sẵn sàng để hỗ trợ bạn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chủ đề