Bị tai nạn giao thông có phải là cơ sở để đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động?

Posted on Tư vấn luật lao động 249 lượt xem

Tóm tắt tình huống:

Chào luật sư! Luật sư cho em hỏi vấn đề này.
Em là công nhân của công ty Samsung Bắc Ninh, ký hợp đồng lao động 2 năm. Ngày 27/5 vừa rồi, em bị tai nạn xe máy và điều trị đến bây giờ là hơn 2 tháng vẫn chưa khỏi. Em cảm giác cơ thể mình rất yếu và cần được nghỉ ngơi thêm nên em muốn chấm dứt hợp đồng lao động với phía công ty. Vậy luật sư cho em hỏi, trong trường hợp này, em đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động được không?
Người gửi: Đình Toàn
tai nan 17080109543639611

Luật sư tư vấn:

Xin chào bạn! Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình tới Luật Việt Phong. Về câu hỏi của bạn, công ty Luật Việt Phong xin tư vấn và hướng dẫn bạn như sau:

1. Căn cứ pháp lý:

– Luật Lao động 2012;

2. Bị tai nạn giao thông có phải là cơ sở để đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động?

Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động là quyền của người lao động cũng như người sử dụng lao động. Tuy nhiên, việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động cần phải thực hiện theo đúng các quy định của pháp luật. Đối với quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động, Điều 37 Luật lao động quy định như sau:
“1. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn trong những trường hợp sau đây:
a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;
b) Không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;
c) Bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động;
d) Bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động;
đ) Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước;
e) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền;
g) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 90 ngày liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và một phần tư thời hạn hợp đồng đối với người làm việc theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa được hồi phục.
2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại khoản 1 Điều này, người lao động phải báo cho người sử dụng lao động biết trước:
a) Ít nhất 3 ngày làm việc đối với các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và g khoản 1 Điều này;
b) Ít nhất 30 ngày nếu là hợp đồng lao động xác định thời hạn; ít nhất 03 ngày làm việc nếu là hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng đối với các trường hợp quy định tại điểm d và điểm đ khoản 1 Điều này; c) Đối với trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều này thời hạn báo trước cho người sử dụng lao động được thực hiện theo thời hạn quy định tại Điều 156 của Bộ luật này”.
Bạn là người lao động làm việc theo hợp đồng xác định thời hạn, cụ thể là 2 năm. Đối với trường hợp người lao động làm việc theo hợp đồng xác định thời hạn bị tai nạn, điểm g Khoản 1 Điều 37 quy định rằng người lao động tai nạn đã điều trị 90 ngày liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn mà khả năng lao động chưa hồi phục thì có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn. Tuy nhiên, theo như bạn trình bày, bạn bị tai nạn và đã điều trị trong vòng hơn hai tháng (hơn 60 ngày) nhưng vẫn chưa khỏi, khoảng thời gian này chưa đáp ứng đủ khoảng thời gian là 90 ngày quy định tại điểm g khoản 1 điều này. Nên bạn sẽ điều trị thêm một tháng nữa, nếu thêm 30 ngày nữa tình hình của bạn vẫn chưa hồi phục, bạn vẫn không thể tiếp tục lao động thì bạn sẽ thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của mình. Và theo quy định tại điểm a Khoản 2 Điều này, bạn cần phải thông báo trước cho người lao động ít nhất 3 ngày làm việc khi thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Còn nếu bạn vẫn muốn chấm dứt hợp đồng lao động ngay bây giờ, bạn có thể thỏa thuận với người sử dụng lao động, trình bày tình trạng sức khỏe cũng như mong muốn của bạn, nếu người sử dụng lao động đồng ý, bạn có thể chấm dứt hợp đồng lao động theo sự thỏa thuận giữa hai bên. 
Trên đây là tư vấn của Công ty Luật Việt Phong về vấn đề Bị tai nạn giao thông có phải là cơ sở để đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động? Chúng tôi hi vọng rằng quý khách có thể vận dụng các kiến thức kể trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống. Nếu có vấn đề pháp lý nào khác cần tư vấn quý khách vui lòng gọi điện tới tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 của công ty Luật Việt Phong để gặp luật sư tư vấn và chuyên viên pháp lý.
Chuyên viên: Trần Thị Hải
 

Bài viết được thực hiện bởi: Luật sư. Nguyễn Văn Đại (Công ty Luật TNHH Việt Phong)

Để được giải đáp thắc mắc về: Bị tai nạn giao thông có phải là cơ sở để đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động?
Vui lòng gọi Tổng đài luật sư tư vấn pháp luật 24/7: 1900 6589

Để gửi Email tư vấn pháp luật, Báo giá dịch vụ pháp lý hoặc đặt Luật sư tư vấn pháp luật trực tiếp.
Vui lòng click tại đây

CÔNG TY LUẬT TNHH VIỆT PHONG

 Hà Nội – Biệt thự 2.11 đường Nguyễn Xuân Khoát, KĐT Ngoại Giao Đoàn, Q. Bắc Từ Liêm
– Số 82 Nguyễn Tuân, Phường Thanh Xuân Trung, Quận Thanh Xuân

 Bắc Giang – 65-67 khu Minh Khai, Thị trấn Chũ, huyện Lục Ngạn

Vui lòng đánh giá bài viết

Nếu có vướng mắc bạn vui lòng liên hệ với Luật sư 1900 633 283

hoặc Bạn có thể click vào các ô dưới đây để gửi Email cho chúng tôi, Luật Việt Phong luôn sẵn sàng để hỗ trợ bạn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chủ đề