Xử lý hành vi trộm cắp tài sản đối với trẻ chưa thành niên

Tóm tắt câu hỏi:

Xử lý hành vi trộm tài sản đối với trẻ chưa thành niên

Thưa Luật sư. Tại địa phương tôi có xảy ra một trường hợp như này. Anh Minh là người chơi gà chọi có tiếng. Gà của anh có đã tham gia thi đấu ở nhiều nơi và đạt được rất nhiều giải. Gần đây anh bị mất 3 con gà chọi, mỗi lần mất 1 con, trong khoảng thời gian 1 tháng. Do có người báo tin nên anh Minh có đến vườn nhà cháu Thái (14 tuổi) để kiểm tra và phát hiện đúng là 3 con gà chọi của anh Minh bị mất đều đang được nhốt trong vườn nhà cháu Thái. Anh Minh có dọa sẽ kêu công an cho cháu Thái đi tù thì cháu mới khai rằng 3 con gà đó là của cháu An (14 tuổi) và cháu Hoàng (16 tuổi) ở cùng làng gửi. Cháu Thái có biết chuyện anh Minh bị mất gà và đoán được 3 con gà này là do cháu An và cháu Hoàng ăn trộm của anh Minh nhưng do là bạn bè cùng làng, với nghĩ An và Hoàng chỉ gửi ở đây vài ngày, nhà cháu Thái thì chỉ có 2 bà cháu ở với nhau, chắc không ai biết, không bị làm sao nên cháu Thái vẫn giúp 2 bạn giấu 3 con gà trong vườn nhà mình. Khi công an xã yêu cầu cháu An và cháu Hoàng lên xã giải quyết thì các cháu có thừa nhận đã bắt trộm 3 con gà của anh Minh định mang bán lấy tiền tiêu nhưng do anh Minh tìm kiếm ghê quá, với ở địa phương ai cũng biết 3 con gà chọi đó là của anh Minh nên các cháu sợ chưa dám bán. Hiện tại 3 con gà chọi này đã được trả về cho anh Minh chăm sóc. Theo định giá, tổng cộng giá trị 3 con gà chọi này vào khoảng hơn 10 triệu đồng. Tôi là trưởng thôn của các cháu, hiện tại gia đình các cháu đang rất lo lắng không biết các cháu có bị đi tù, dang dở việc học hay không? Vậy mong Luật sư cho tôi biết, với trường hợp này, theo quy định của pháp luật, ba cháu Thái, An, Hoàng sẽ bị xử lý như thế nào? Tôi cảm ơn!!

Người gửi: Tạ Văn Hiền (Vĩnh Phúc)

Xử lý hành vi trộm cắp tài sản đối với trẻ chưa thành niên

( Ảnh minh họa:Internet)
Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại gọi 1900 6589

 

Luật sư tư vấn:

Xin chào bác! Cám ơn bác đã gửi câu hỏi của mình tới Luật Việt Phong. Về câu hỏi của bác, công ty Luật Việt Phong xin tư vấn và hướng dẫn bác như sau:

Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:

“Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự

1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.

2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.

Trên thực tế, hành vi của 3 em Hoàng, An, Thái đều có dấu hiệu của tội phạm hình sự. Tuy nhiên, do các em đều chưa thành niên nên việc xử lý đối với hành vi của các em được giải quyết như sau:

1/ Xử lý hành vi trộm cắp tài sản đối với em Hoàng (16 tuổi)

Do em Hoàng đã đủ 16 tuổi nên em phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm do em thực hiện. Hành vi trộm cắp tài sản được định giá hơn 10 triệu đồng của em Hoàng đã cấu thành tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009: “Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”.

Tuy nhiên, Điều 73 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định:

“Điều 73. Cải tạo không giam giữ

Khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội, thì không khấu trừ thu nhập của người đó.

Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội không quá một phần hai thời hạn mà điều luật quy định”

Đồng thời Mục 11 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự quy định:

“11. Về việc quyết định hình phạt tù đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội

11.1. Khi quyết định hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội thì cần thực hiện như sau:

a) Xác định mức hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội như đối với trường hợp người phạm tội là người đã thành niên;

b) Trường hợp người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thì hình phạt áp dụng đối với họ là 3/4 mức hình phạt áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội được xác định theo hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 11.1 này;

c) Trường hợp người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì hình phạt áp dụng đối với họ là 1/2 mức hình phạt áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội được xác định theo hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 11.1 này.

Ví dụ: A là người chưa thành niên phạm tội “vận chuyển trái phép chất ma tuý” thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 194 của BLHS, có khung hình phạt từ 15 năm đến 20 năm tù thì trước hết cần xem A là người đã thành niên phạm tội. Do có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được áp dụng Điều 47 của BLHS, nếu A là người đã thành niên thì xét xử A mức hình phạt 12 năm tù là thoả đáng. Vì A là người chưa thành niên, nếu A từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thì mức hình phạt đối với A là 9 năm tù (3/4 của 12 năm tù); nếu A là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì mức hình phạt đối với A là 6 năm tù (1/2 của 12 năm tù).

11.2. Khi quyết định hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội, cần phân biệt:

a) Trường hợp theo cách tính được hướng dẫn tại tiểu mục 11.1 mục 11 này, mà mức hình phạt tù được xác định đối với người chưa thành niên phạm tội thấp hơn mức tối thiểu của hình phạt tù có thời hạn (ba tháng) thì cần áp dụng loại hình phạt khác nhẹ hơn đối với họ mà không được quyết định hình phạt tù dưới ba tháng.

b) Trường hợp theo cách tính được hướng dẫn tại tiểu mục 11.1 mục 11 này, mà mức hình phạt tù được xác định đối với người chưa thành niên phạm tội có số dư ngày không tròn tháng thì chỉ nên xử phạt mức hình phạt tù bằng số tròn tháng không lấy số dư ngày”.

Theo đó, em Hoàng (16 tuổi) có hành vi trộm cắp tài sản có giá trị hơn 10 triệu đồng thì có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 18 tháng hoặc phạt tù từ 04 tháng đến 27 tháng.

2/ Xử lý hành vi trộm cắp tài sản đối với em An (14 tuổi)

Trong trường hợp này, em An cùng thực hiện hành vi trộm cắp với em Hoàng. Do đó, hành vi của em An có dấu hiệu của tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Tức là, căn cứ theo quy định tại điểm 3 khoản 8 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 thì hành vi trộm cắp tài sản của An có dấu hiệu của tội phạm ít nghiêm trọng. Vì vậy, An sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi này do An vẫn chưa đủ 16 tuổi. Tuy nhiên, An vẫn bị xử lý theo quy định tại Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và các văn bản pháp luật có liên quan.

Theo quy định tại Điểm a khoản 1 Điều 15 Nghị định 167/2013/NĐ-CP của Chính phủ Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình thì hành vi trộm cắp tài sản sẽ bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng, bị tịch thu tang vật và phương tiện vi phạm hành chính.

Đồng thời, Điều 22 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định: “Cảnh cáo được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không nghiêm trọng, có tình tiết giảm nhẹ và theo quy định thì bị áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo hoặc đối với mọi hành vi vi phạm hành chính do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện. Cảnh cáo được quyết định bằng văn bản”.

Tuy nhiên, khoản 3 Điều 134 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định một trong các nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên là “Trường hợp người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi vi phạm hành chính thì không áp dụng hình thức phạt tiền”.

Do đó, theo các quy định trên và quy định tại Điều 89 và khoản 3 Điều 90 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì em An trong khoảng thời gian 01 tháng đã có 03 lần có hành vi trộm cắp nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nên trong trường hợp này em An phải chịu hình phạt cảnh cáo; áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn trong khoảng thời gian từ 03 tháng đến 06 tháng; đồng thời bị tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính (nếu có).

3/ Xử lý hành vi chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có đối với em Thái (14 tuổi)

Theo thông tin bác cung cấp thì sau khi biết nhà anh Minh mất gà chọi thì em Thái mới tự đoán biết được 3 con gà chọi của Hoàng, An gửi là do trộm cắp được, chứ không phải do 3 em có sự bàn bạc từ trước. Do đó, hành vi chứa chấp tài sản do người khác phạm tôi mà có của em Thái có dấu hiệu của tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 250 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009: “Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”.

Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, theo quy định tại khoản 3 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 thì tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được quy định tại khoản 1 Điều 250 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 là tội phạm ít nghiêm trọng. Do đó, em Thái mới 14 tuổi sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này.

Điểm đ khoản 2 Điều 15 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định hành vi cất giữ tài sản của người khác mà biết rõ tài sản đó do vi phạm pháp luật mà có thì bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng và bị tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính. Nhưng em Thái mới 14 tuổi, do đó, không thể áp dụng hình phạt tiền đối với Thái. Trường hợp này, theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì chỉ có thể áp dụng hình phạt cảnh cáo và tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính. 

Tuy nhiên, do Thái đã tự nguyện khai báo, thành thật hối lỗi về hành vi của mình nên cũng có thể xem xét thay thế hình phạt cảnh cáo bằng biện pháp nhắc nhở theo quy định tại Điều 139 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.

Trên đây là tư vấn của công ty Luật Việt Phong về Xử lý hành vi trộm cắp tài sản đối với trẻ chưa thành niên. Chúng tôi hi vọng rằng quý khách có thể vận dụng các kiến thức kể trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống. Nếu có vấn đề pháp lý nào khác cần tư vấn quý khách vui lòng gọi điện tới tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 của công ty Luật Việt Phong để gặp luật sư tư vấn và chuyên viên pháp lý.

Bài viết được thực hiện bởi: Luật sư. Nguyễn Văn Đại

Để được giải đáp thắc mắc về: Xử lý hành vi trộm cắp tài sản đối với trẻ chưa thành niên
Vui lòng gọi Tổng đài luật sư tư vấn pháp luật 24/7: 1900 6589

Để gửi Email tư vấn pháp luật, Báo giá dịch vụ pháp lý hoặc đặt Luật sư tư vấn pháp luật trực tiếp.
Vui lòng click tại đây

CÔNG TY LUẬT TNHH VIỆT PHONG

 Hà Nội – Biệt thự 2.11 đường Nguyễn Xuân Khoát, KĐT Ngoại Giao Đoàn, Q. Bắc Từ Liêm
– Số 82 Nguyễn Tuân, Phường Thanh Xuân Trung, Quận Thanh Xuân

 Bắc Giang – 65-67 khu Minh Khai, Thị trấn Chũ, huyện Lục Ngạn

Vui lòng đánh giá bài viết

Nếu có vướng mắc bạn vui lòng liên hệ với Luật sư 1900 633 283

hoặc Bạn có thể click vào các ô dưới đây để gửi Email cho chúng tôi, Luật Việt Phong luôn sẵn sàng để hỗ trợ bạn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chủ đề