Tòa án có được kéo dài thời gian xét xử hay không? Đang có tranh chấp đất đai thì có được chuyển nhượng quyền sử dụng đất không?

Tóm tắt tình huống:

Chào luật sư!!
Tôi tên: Đặng Văn Bình
Tôi có một việc cần xin tư vấn, mong được các luật sư tư vấn ạ:
Vụ việc như sau:
Vào tháng 7 năm 1993, Ba và mẹ tôi có mua của gia đình hàng xóm 4500m2 đất nông nghiệp trồng lúa với số tiền 15 chỉ vàng. Gia đình tôi canh tác đất từ lúc đấy.
Đến tháng 5 năm 1997 gia đình tôi có nhu cầu chuyển quyền sử dụng đất, nên gia đình tôi có làm 1 đơn xin chuyển quyền sử dụng đất (đơn có chữ ký bên tôi, bên người bán và có xác nhận, chữ kí của Phó trưởng ấp lúc bấy giờ). Nhưng khi muốn chuyển quyền sử dụng đất thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bên bán đang phải thế chấp cho ngân hàng nên không tiến hành chuyển quyền sử dụng đất được.
Gia đình tôi canh tác đất từ năm 1993 đến nay và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của người sử dụng đất đối với nhà nước.
Vào tháng 5 năm 2016 thì gia đình người bán có lời mua lại đất nhưng với giá rẻ (khi mua Ba, mẹ tôi có giao kèo bằng miệng, khi nào muốn mua lại thì gia đình tôi sẽ bán lại theo giá thị trường) nên gia đình tôi không đông ý nên có sự nảy sinh mâu thuẩn.
Tháng 6 năm 2016 gia đình tôi có viết đơn nhờ chính quyền địa phương can thiệp giải quyết.
Vụ việc được giải quyết như sau: 
Gia đình tôi làm đơn gửi đến chính quyền ấp (kèm đơn xin chuyển quyền sử dụng đất viết năm 1997), chính quyền ấp tiến hành hòa giải (nội dung trong biên bản hòa giải bên bán vẫn thừa nhận là bán cho gia đình tôi và muốn mua lại) nhưng hòa giả không thành vì gia đình tôi không đồng ý với giá như thế.
Gia đình tôi làm đơn gửi đến chính quyền xã (kèm đơn xin chuyển quyền sử dụng đất viết năm 1997 và biên bản hòa giải không thành ở ấp), chính quyền xã tiến hành hòa giải (nội dung trong biên bản hòa giải bên bán vẫn thừa nhận là bán cho gia đình tôi và muốn mua lại) nhưng hòa giải không thành vì gia đình tôi không đồng ý với giá như thế. Trong biên bản hòa giải ở xã có xác nhận của thành phần ban hòa giải và của Phó chủ tịch UBND xã (có dấu đỏ).
Tháng 7 năm 2016 gia đình tôi có gửi đơn đến Tòa án nhân dân huyện yêu cầu xem xét, giải quyết: (lúc này gia đình bên bán có hành vi ngăn cản, phá hoại, không cho gia đình tôi canh tác)
Tòa án nhân dân Huyện thụ lý đơn và xem xét giải quyết.
Gia đình tôi nộp tất cả các chứng cứ, hồ sơ, giấy tờ mà tòa án yêu cầu như:
Đơn yêu cầu giải quyết;
Hồ sơ từ cấp Xã chuyển lên;
Biên bản phá hại, cản trở nhiều lần do bên bán gây ra (tòa án có văn bản cho gia đình tôi tiếp tục canh tác);
Hồ sơ trích lục, đo đạt hiện trạng đất do Phòng tài nguyên và môi trường cấp;
Về phía tòa án:
Tiến hành mời, hòa giải, thu thập chứng cứ;
Yêu cầu gia đình tôi làm đơn xin gia hạn 1 lần (3 tháng) lí do là cận tết nên việc đo đạt đất không thực hiện kịp, gia đình tôi làm theo yêu cầu của tòa án.
Tòa án cũng xác minh các hộ lân cận nhà tôi và nhà người bán, xác minh Phó trưởng ấp năm 1997: có xác nhận là bán cho gia đình tôi; 
Vào tháng 7 năm 2017, tòa án yêu cầu gia đình tôi giám định chữ ký của người bán, gia đình tôi vẫn thực hiện.
Đến nay, Trong khi chờ kết quả giám định của cơ quan chức năng thì gia đình tôi phát hiện ra là đất đó đã được Phòng tài nguyên và môi trường Huyện chuyển quyền sử dụng đất cho người khác được 1 tháng (có hồ sơ trích lục của cơ quan có thẩm quyền về vụ việc, hồ sơ chuyển quyền sử dụng cho người khác, đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng mới).
Tôi nhận thấy ràng:
1. Việc kéo dài thời gian xét xử của tòa án là không hợp lý;
2. Đất đang tranh chấp mà vẫn được chuyển quyền sử dụng đất là như thế nào? Lỗi ở đâu?
3. Gia đình tôi phải làm sao để giải quyết vụ việc tốt nhất.
Xin tư vấn từ Quý luật sư! 
Tôi xin cám ơn!
Người gửi: Đặng Văn Bình
toa an thu ly khi khong co dieu luat quy dinh 5 1

Luật sư tư vấn:

Xin chào bạn! Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình tới Luật Việt Phong. Về câu hỏi của bạn, công ty Luật Việt Phong xin tư vấn và hướng dẫn bạn như sau:

1. Căn cứ pháp lý:

– Bộ Luật tố tụng Dân sự năm 2015
– Luật Đất đai năm 2013

2. Tòa án có được kéo dài thời gian xét xử hay không? Đang có tranh chấp đất đai thì có được chuyển nhượng quyền sử dụng đất không? 

Thứ nhất, về vấn đề kéo gian thời gian xét xử của Tòa án, thì theo quy định của pháp luật hiện hành, tại Điều 191 Bộ Luật Tố tụng Dân sự năm 2015 có quy định như sau:
“Điều 191. Thủ tục nhận và xử lý đơn khởi kiện
1. Tòa án qua bộ phận tiếp nhận đơn phải nhận đơn khởi kiện do người khởi kiện nộp trực tiếp tại Tòa án hoặc gửi qua dịch vụ bưu chính và phải ghi vào sổ nhận đơn; trường hợp Tòa án nhận đơn khởi kiện được gửi bằng phương thức gửi trực tuyến thì Tòa án in ra bản giấy và phải ghi vào sổ nhận đơn.
Khi nhận đơn khởi kiện nộp trực tiếp, Tòa án có trách nhiệm cấp ngay giấy xác nhận đã nhận đơn cho người khởi kiện. Đối với trường hợp nhận đơn qua dịch vụ bưu chính thì trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn, Tòa án phải gửi thông báo nhận đơn cho người khởi kiện. Trường hợp nhận đơn khởi kiện bằng phương thức gửi trực tuyến thì Tòa án phải thông báo ngay việc nhận đơn cho người khởi kiện qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có).
2. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án phân công một Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện.
3. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải xem xét đơn khởi kiện và có một trong các quyết định sau đây:
a) Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện;
b) Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án theo thủ tục thông thường hoặc theo thủ tục rút gọn nếu vụ án có đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn quy định tại khoản 1 Điều 317 của Bộ luật này;
c) Chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và thông báo cho người khởi kiện nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác;
d) Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện nếu vụ việc đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
4. Kết quả xử lý đơn của Thẩm phán quy định tại khoản 3 Điều này phải được ghi chú vào sổ nhận đơn và thông báo cho người khởi kiện qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có).”
Như vậy, theo như những gì bạn cung cấp đến cho chúng tôi thì Tòa án đã thụ lý đơn và xem xét giải quyết vụ án, điều này phù hợp với quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
Thêm vào đó, tại Điều 203 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015 về thời hạn chuẩn bị xét xử có quy định như sau:
“Điều 203. Thời hạn chuẩn bị xét xử
1. Thời hạn chuẩn bị xét xử các loại vụ án, trừ các vụ án được xét xử theo thủ tục rút gọn hoặc vụ án có yếu tố nước ngoài, được quy định như sau:
a) Đối với các vụ án quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật này thì thời hạn là 04 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án;
b) Đối với các vụ án quy định tại Điều 30 và Điều 32 của Bộ luật này thì thời hạn là 02 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.
Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 02 tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này và không quá 01 tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản này.
Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án thì thời hạn chuẩn bị xét xử được tính lại kể từ ngày quyết định tiếp tục giải quyết vụ án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
2. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Lập hồ sơ vụ án theo quy định tại Điều 198 của Bộ luật này;
b) Xác định tư cách đương sự, người tham gia tố tụng khác;
c) Xác định quan hệ tranh chấp giữa các đương sự và pháp luật cần áp dụng;
d) Làm rõ những tình tiết khách quan của vụ án;
đ) Xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật này;
e) Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
g) Tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định của Bộ luật này, trừ trường hợp vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn;
h) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Bộ luật này.
3. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 1 Điều này, tùy từng trường hợp, Thẩm phán ra một trong các quyết định sau đây:
a) Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự;
b) Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự;
c) Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự;
d) Đưa vụ án ra xét xử.
4. Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa; trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là 02 tháng.”
Với thông tin bạn đưa đến thì đây là một vụ tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật đất đai bởi vậy dưới quy định của Điều 203 Bộ Luật Tố tụng Dân sự năm 2015 nên trên thì thời gian chuẩn bị xét xử vụ án là 04 tháng kể từ ngày thụ lý đơn khởi kiện. Tuy nhiên, cũng theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự tại Khoản 1 Điều 203 Bộ Luật Tố tụng Dân sự năm 2015 có quy định ” Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 02 tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này và không quá 01 tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản này.”. Như vậy, đây là vụ việc tranh chấp đất đai cho nên thời gian gia hạn chuẩn bị xét xử sẽ là không quá 02 tháng. Nhưng theo thông tin bạn cung cấp thì Tòa án yêu cầu bạn viết đơn xin gia hạn 1 lần với thời gian là 3 tháng, điều này là không phù hợp với quy định của pháp luật. Như vậy, trên thực tế Tòa án có thể kéo dài thời gian xét xử không quá 6 tháng đối với vụ việc tranh chấp đất đai, tuy nhiên, với tình huống của bạn, việc kéo dài thời gian của Tòa án như vậy là không hợp lý. 
Thứ hai, về đất đang tranh chấp thì có quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất hay không? Với vấn đề  này, chúng tôi xin tư vấn như sau:
” Điều 167. Quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất
1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này.”
Cùng với đó, tại Điều 188 Luật Đất đai năm 2013 về điều kiện chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dựng đất có quy định như sau:
” Điều 188. Điều kiện thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất
1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây:
a) Có Giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 186 và trường hợp nhận thừa kế quy định tại khoản 1 Điều 168 của Luật này;
b) Đất không có tranh chấp;
c) Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;
d) Trong thời hạn sử dụng đất.”
Như vậy, một trong những điều kiện để được thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất đó là diện tích đất không có tranh chấp. Theo những gì bạn cung cấp thì bạn đang chờ Tòa án giải quyết vụ việc cho nên đã có tranh chấp đất đai xảy ra. Bởi vậy, việc cấp giấy chứng nhận chuyển quyền sử dụng đất của Phòng Tài nguyên và môi trường huyện khi diện tích đất đó đang có tranh chấp là sai quy định của pháp luật. 
Thêm vào đó, tại Điều 105 Luật Đất đai năm 2013 về thẩm quyền cấp giấy chứng nhận có quy định như sau:
” Điều 105. Thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho tổ chức, cơ sở tôn giáo; người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện dự án đầu tư; tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được ủy quyền cho cơ quan tài nguyên và môi trường cùng cấp cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
2. Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam.
3. Đối với những trường hợp đã được cấp Giấy chứng nhận, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng mà thực hiện các quyền của người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất hoặc cấp đổi, cấp lại Giấy chứng nhận, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng thì do cơ quan tài nguyên và môi trường thực hiện theo quy định của Chính phủ.”
Do vậy, trong trường hợp này Phòng tài nguyên và môi trường huyện cấp giấy chứng nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất là sai thẩm quyền, nên lỗi này thuộc về cơ quan nhà nước có thẩm quyền, khi đó, bạn có thể thực hiện một trong hai trường hợp sau để đảm bảo lợi ích cho mình:
– Trường hợp 1: Bạn làm đơn khiếu nại hoặc đơn khởi kiện trực tiếp ra Toàn án về việc cấp giấy chứng nhận chuyển quyền sử dụng đất của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện, yêu cầu thu hồi, hủy giấy chứng nhận chuyển quyền sử dụng đất theo Điều 106 Luật Đất đai năm 2013:
” Điều 106. Đính chính, thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp
 2. Nhà nước thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp trong các trường hợp sau đây:
a) Nhà nước thu hồi toàn bộ diện tích đất trên Giấy chứng nhận đã cấp;
b) Cấp đổi Giấy chứng nhận đã cấp;
c) Người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất mà phải cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;
d) Giấy chứng nhận đã cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng diện tích đất, không đủ điều kiện được cấp, không đúng mục đích sử dụng đất hoặc thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai, trừ trường hợp người được cấp Giấy chứng nhận đó đã thực hiện chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật đất đai.”
– Trường hợp 2: Do Tòa án đã nhận đơn thụ lý giải quyết vụ án nên bạn có thể chờ đến thời điểm Tòa án giải quyết thì bạn có thể cung cấp các tình tiết mới về việc quyết định cấp giấy chứng nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất sai quy định khi diện tích đất đang có tranh chấp của Phòng tài nguyên và môi trường huyện. Trên cơ sở đó, Tòa án có văn bản yêu cầu thu hồi giấy chứng nhận chuyển quyền sử dụng đất đã cấp trước đó để giải quyết vấn đề tranh chấp.
Thứ ba, để giải quyết tốt vụ việc này, bạn cần:
Những gì bạn cung cấp cho chúng tôi chưa thật sự đầy đủ, bởi theo quy định tại Khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai năm 2013 thì hợp đồng mua bán đất phải được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật, nhưng ở đây bạn không nói hợp đồng của bạn đã được công chứng, chứng thực hay chưa? Do vậy, để đảm bảo quyền lợi cho mình, bạn cần cung cấp hợp đồng mua bán đất có công chứng, chứng thực cho Tòa án theo quy định tại Điêu 167 Luật Đất đai năm 2013:
” Điều 167. Quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất
3. Việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của người sử dụng đất được thực hiện như sau:
a) Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp kinh doanh bất động sản quy định tại điểm b khoản này;
b) Hợp đồng cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp; hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất mà một bên hoặc các bên tham gia giao dịch là tổ chức hoạt động kinh doanh bất động sản được công chứng hoặc chứng thực theo yêu cầu của các bên;
c) Văn bản về thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật về dân sự;
d) Việc công chứng thực hiện tại các tổ chức hành nghề công chứng, việc chứng thực thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp xã.”
Khi cung cấp hợp đồng mua bán đất thì trong đó bao gồm cả thỏa thuận về việc thỏa thuận mua lại với giá thị trường, khi đó, căn cứ vào hợp đồng đã kí kết giữa hai bên để buộc gia đình hàng xóm thực hiện theo đúng hợp đồng đó.
Còn về phía, Phòng Tài nguyên và môi trường huyện cấp giấy chứng nhận chuyển quyền sử dụng đất cho một chủ sở hữu khác trong thời gian Tòa đã thụ lý đơn kiện và gia đình bạn đang chờ Tòa án xét xử thì để đảm bảo quyền lợi cho mình bạn có thể thực hiện một trong hai trường hợp chúng tôi đã nêu ở trên.
Trên đây là tư vấn của Công ty Luật Việt Phong về vấn đề Tòa án có được kéo dài thời gian xét xử hay không? Đang có tranh chấp đất đai thì có được chuyển nhượng quyền sử dụng đất không? Chúng tôi hi vọng rằng quý khách có thể vận dụng các kiến thức kể trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống. Nếu có vấn đề pháp lý nào khác cần tư vấn quý khách vui lòng gọi điện tới tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 của Công ty Luật Việt Phong để gặp luật sư tư vấn và chuyên viên pháp lý.
Chuyên viên: Nguyễn Thu Huyền

Bài viết được thực hiện bởi: Luật sư. Nguyễn Văn Đại

Để được giải đáp thắc mắc về: Tòa án có được kéo dài thời gian xét xử hay không? Đang có tranh chấp đất đai thì có được chuyển nhượng quyền sử dụng đất không?
Vui lòng gọi Tổng đài luật sư tư vấn pháp luật 24/7: 1900 6589

Để gửi Email tư vấn pháp luật, Báo giá dịch vụ pháp lý hoặc đặt Luật sư tư vấn pháp luật trực tiếp.
Vui lòng click tại đây

CÔNG TY LUẬT TNHH VIỆT PHONG

 Hà Nội – Biệt thự 2.11 đường Nguyễn Xuân Khoát, KĐT Ngoại Giao Đoàn, Q. Bắc Từ Liêm
– Số 82 Nguyễn Tuân, Phường Thanh Xuân Trung, Quận Thanh Xuân

 Bắc Giang – 65-67 khu Minh Khai, Thị trấn Chũ, huyện Lục Ngạn

Vui lòng đánh giá bài viết

Nếu có vướng mắc bạn vui lòng liên hệ với Luật sư 1900 633 283

hoặc Bạn có thể click vào các ô dưới đây để gửi Email cho chúng tôi, Luật Việt Phong luôn sẵn sàng để hỗ trợ bạn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chủ đề